Phật giáo Hòa Hảo là tôn giáo có số tín đồ đông thứ 4 tại Việt Nam, được phát triển theo Đạo Phật và được coi là một nhánh của Đạo Phật Việt Nam. Phật giáo Hòa Hảo vừa là một tôn giáo khác vừa là một nhánh của đạo Phật, ra đời ở Nam Bộ năm 1939. Là một tôn giáo cách tân, có xu hướng nhập thế, rất coi trọng hoạt động từ thiện xã hội nên trong hiến chương của Phật giáo Hòa Hảo đã xác định đường hướng hành đạo là “vì Đạo pháp, vì Dân tộc”.
1. Phật giáo Hòa Hảo là gì?
Theo wikipedia, Phật giáo Hòa Hảo là một tông phái của Phật giáo do Huỳnh Phú Sổ khai lập vào năm Kỷ Mão 1939 tại làng Hòa Hảo, tỉnh Châu Đốc nay là tỉnh An Giang. Ông lấy pháp môn “Học Phật – Tu Nhân” làm căn bản và chủ trương tu hành tại gia. Đây được coi là nền tảng của Đạo Phật, kết hợp với những bài sấm kệ do chính Huỳnh Phú Sổ biên soạn. Theo thống kê vào năm 2019 có khoảng 970.000 tín đồ Phật giáo Hòa Hảo và trở thành tôn giáo có số lượng tín đồ đông thứ 4 tại Việt Nam.
Phật giáo Hòa Hảo lấy Pháp Môn là “học Phật – tu Nhân” giúp nhân dân học Phật tu Nhân hành thiện, chủ trương tu hành tại gia, giải trừ mê tín dị đoan. Bởi vậy, Phật giáo Hòa Hảo được coi là một tôn giáo nội sinh mang đậm tính dân tộc, ảnh hưởng mạnh mẽ tại Nam Bộ, phù hợp với mọi tầng lớp trong xã hội.
2. Phật giáo Hòa Hảo ra đời khi nào? Sự tích Phật giáo Hòa Hảo
Thời bấy giờ, đất nước bị xâm chiếm bởi hai thế lực là Pháp và Nhật. Xã hội loạn lạc, Phật giáo đứng trước áp lực của văn hóa phương Tây. Mọi người dân đều nghiêng về Tây học, nho giáo trở nên lỗi thời, các ông đồ và thầy sư đều tìm lối thoát cho mình. Thời điểm đó, Phật giáo tại chùa bị biến tướng chỉ phục vụ cho ma chay, sư thầy biến thành thầy cúng.
Phật giáo ngày càng chìm đắm trong mê tín dị đoan. Thấy vậy Đức Huỳnh Phú Sở với sứ mệnh Thiên cơ đã đứng ra hành đạo, lập đạo và truyền đạo.
Huỳnh Phú Sổ, là con thứ tư trong một gia đình nhưng là con trai trưởng của ông Huỳnh Công Bộ và bà Lê Thị Nhậm. Sau khi tốt nghiệp tiểu học, ông bỏ học vì mắc nhiều bệnh. Quá trình lên núi chữa bệnh là thời kỳ ông bắt đầu học đạo, học làm thuốc. Khi chưa tròn 18 tuổi ông tuyên bố mình là bậc “sinh nhi tri”, biết được quá khứ và nhìn thấu tương lai.
Người sáng lập ra Phật giáo Hòa Hảo
Ông chữa bệnh cho người dân bằng các bài thuốc Nam do ông kê hoặc nước lã, giấy vàng, lá xoài, lá ổi, hoa mẫu đơn, hoa cúc vạn thọ. Đồng thời, ông còn truyền bá giáo lý bằng những bài sám giảng (còn gọi là sấm giảng) do chính ông soạn thảo. Chỉ trong 2 năm từ 1937 – 1939, số người tin theo ông khá đông và ông nổi tiếng tiếng khắp vùng.
Ngày 18/5 năm Kỷ Mão (tức ngày 04/07/1939) Huỳnh Phú Sổ tổ chức lễ khai đạo tại tư gia, lấy tên ngôi làng Hòa Hảo – nơi mình sống để đặt tên cho tôn giáo ông lập là “Phật giáo Hòa Hảo”. Sau đó, ông được các tín đồ Phật giáo Hòa Hảo suy tôn là “Thầy tổ” và được gọi là “Đức Tôn Sư”, “Đức Thầy” hay “Đức Huỳnh giáo chủ”.
Nội dung cốt lõi của những bài sấm giảng đó là giáo lý của Đức Phật Thích Ca. Với lối văn dễ hiểu, bình dị, gần gũi nên được mọi người đón nhận tích cực. Đức Huỳnh giáo chủ vừa chữa bệnh vừa truyền giáo nên Phật giáo Hòa Hảo phát triển rộng rãi khắp miền Tây Nam Bộ.
3. Quá trình phát triển của Phật giáo Hòa Hảo
3.1. Giai đoạn 1939 – 1975
Với các tín đồ Phật giáo Hòa Hảo, ông Huỳnh Phú Sở trở thành Đức Phật hóa kiếp, là Phật sống vì những việc làm và lời lẽ “siêu phàm”. Trong khoảng thời gian này, ông đã cho ra 6 tác phẩm trong “Sấm giảng giáo lý”.
Bối cảnh phức tạp của chiến tranh thế giới thứ hai đã ảnh hưởng đến ông và sự phát triển của Phật giáo Hòa Hảo. Có thể nói, đây là thời kỳ phát triển mạnh mẽ nhất, giáo lý tiếp tục được hoàn chỉnh, nghi lễ tôn giáo được hình thành và ổn định đặc biệt là sự phát triển về số lượng tín đồ.
Từ năm 1947, Phật giáo Hòa Hảo chuyển sang một giai đoạn mới – thời kỳ mới phát triển có tổ chức hơn, tổ chức thành chính đạo. Năm 1964, Ban trị sự Phật giáo Hòa Hảo nhiệm kỳ I do ông Lương Trọng Tường là Hội trưởng chính thức hoạt động. Sau 25 năm kể từ khi ra đời, đây là cột mốc mở đầu cho thời kỳ Phật giáo Hòa Hảo có tổ chức chính đạo.
3.2. Giai đoạn từ 1975 – 1/1999
Sau khi miền Nam được giải phóng, đất nước thống nhất, giữa năm 1975 đại diện Tổ đình là bà Huỳnh Thị Kim Biên và ông Huỳnh Văn Quốc đã ra thông báo giải tán Ban Trị sự các cấp của Phật giáo Hòa Hảo. Từ đó, tổ chức hành chính của giáo hội Hòa Hảo không còn nhưng vẫn tồn tại thông qua hoạt động tôn giáo của từng cá nhân trong cộng đồng tín độ Phật giáo Hòa Hảo.
Giai đoạn phát triển từ 1975 – 1/1999
Trong môi trường xã hội của chế độ mới, sự đạo của Phật giáo Hòa Hảo vẫn được duy trì. Về đức tin, trong ý thức của nhiều tín đồ vẫn tồn tại biểu trung của Phật giáo Hòa Hảo. Đức Thầy Huỳnh Phú Sổ được coi là cội nguồn của đức tin, nhu cầu tôn giáo của tín đồ không suy giảm, họ tuân thủ theo giáo lý nguyên thủy và có biểu hiện thế tục trong đời sống đạo.
3.3. Giai đoạn từ tháng 5/1999 – 2021
Xuất phát từ nguyện vọng, nhu cầu chính đáng của các tín đồ, mong muốn có một tổ chức giáo hội để hướng dẫn, tuyên truyền giáo lý Phật giáo Hòa Hảo cho bà con và có địa điểm hợp pháp để hoạt động, sinh hoạt tôn giáo. Ngày 11/6/1999, Ban Tôn giáo của Chính phủ ban hành quyết định số 21/QĐ/TGCP về việc công nhận và tổ chức hoạt động của Ban đại diện Phật giáo Hòa Hảo. Đây là sự kiện quan trọng, có ý nghĩa to lớn, thể hiện sự đúng đắn về chủ trương, chính sách tôn tự do tín ngưỡng, tôn giáo của Đảng và Nhà nước.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ II tháng 6/2004 đã xây dựng Hiến chương, tiếp tục khẳng định đường hướng hành động của giáo hội Hòa Hảo trong giai đoạn mới là “Vì đạo pháp, vì dân tộc”, kiện toàn tổ chức gồm Ban Trị sự 2 cấp hành chính đạo cấp toàn đạo và cấp cơ sở. Ban Trị sự trung ương giáo hội Hòa Hảo là đại diện hợp pháp duy nhất.
Trải qua 5 kỳ đại hội, Phật giáo Hòa Hảo đã từng bước phát triển, trở thành giáo hội 2 cấp hành chính gồm Ban Trị sự Trung ương và 400 ban Trị sự xã, phường, thị trấn cùng 14 ban đại diện tại các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Đến nay, giáo hội Hòa Hảo có khoảng 1,5 triệu tín đồ sinh sống ở 22 tỉnh, tập trung chủ yếu ở các tỉnh An Giang, Cần Thơ, Đồng Tháp, Vĩnh Long, Bến Tre, Hậu Giang, Tiền Giang, Long An và Kiên Giang.
Ban Trị sự trung ương Phật giáo Hòa Hảo từng bước củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động của các ban chuyên môn. Hàng năm tổ chức 2 ngày lễ quan trọng của đạo là ngày khai đạo 18/5 âm lịch và ngày Đản sinh Đức Huỳnh giáo chủ 25/11 âm lịch.
Đặc biệt, giáo hội Hòa Hảo vận động các tín đồ tham gia những hoạt động từ thiện – xã hội như xây mới và sửa chữa cầu nông thôn, sửa chữa và nâng cấp đường bộ, quyên góp gạo, tiền để tổ chức cứu trợ cho vùng lũ,…Kết quả như sau:
● Nhiệm kỳ I (1999 – 2004) toàn đạo thực hiện được: 22 tỷ đồng;
● Nhiệm kỳ II (2004 – 2009): 197 tỷ đồng;
● Nhiệm kỳ III (2009 – 2014): 514 tỷ đồng;
● Nhiệm kỳ IV (2014 – 2019): 2.000 tỷ đồng.
● Nhiệm kỳ V (2019-2021) đến nay: trên 1.200 tỷ đồng (trong đó, tiền ủng hộ quỹ Vaccine phòng chống Covid-19 và hoạt động từ thiện xã hội liên quan đến phòng, chống Covid-19 khoảng 500 tỷ đồng).
Trong khoảng thời gian qua, bà con tín đồ Phật giáo Hòa Hảo luôn nêu cao trách nhiệm công dân, sống và làm việc theo pháp luật; luôn đấu tranh chống lại các hoạt động gây chia rẽ đoàn kết dân tộc, góp phần giữ vững sự ổn định chính trị, xây dựng xã hội theo định hướng “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
4. Kinh sách và giáo luật Phật giáo Hòa Hảo
4.1. Kinh sách của Phật giáo Hòa Hảo
Kinh sách của Phật giáo Hòa Hảo gồm có 2 phần là sấm giảng giáo lý và phần thi văn giáo lý.
● Sấm giảng giáo lý
Sấm giảng gồm 6 cuốn
Bao gồm 6 cuốn:
Cuốn 1: “Sấm giảng khuyên người đời tu niệm” được viết theo thể lục bát có 912 câu
Cuốn 2: “Kệ dân của người khùng” được viết dưới dạng thơ thất ngôn, gồm 846 câu
Cuốn 3: “Sấm giảng” viết năm 1939, theo thể lục bát gồm 612 câu
Cuốn 4: “Giác mê tâm kệ” viết năm 1939, thơ 7 chữ, dài 846 câu. Nội dung cuốn 4 đề cập tới các khái niệm Phật giáo như Tứ diệu đế, Bát chính đạo, Ngũ uẩn, Lục trần,…khuyên người đời tu theo Phật cốt lòng thành, không câu nệ hình thức.
Cuốn 5: “Khuyến thiện” viết năm 1941, 756 câu kể chuyện Thích Ca ngộ đạo, luận khổ về tịnh độ, diệt ngã trước, trừ thập ác, hành thập thiện.
Cuốn 6: “Cách tu hiền và sự ăn ở của người bổn đạo” được viết năm 1945 dưới dạng văn xuôi, bàn về cách tu Phật giáo Hòa Hảo là tu tại gia, tức học Phật tu nhân.
● Thi văn giáo lý
Gồm những bài thi văn xướng họa được tập hợp lại từ năm 1939 – 1947, gồm có 253 bài văn vần và văn xuôi.
Phật giáo Hòa Hảo được coi là đạo Phật không thờ cốt Phật, sấm giảng giáo lý chủ yếu dựa vào hình thức tín ngưỡng thần bí, các câu sấm giảng của Trạng Trình. Giáo lý Phật Hòa Hảo gói trọn trong 4 chữ “Học Phật tu nhân” và cốt lõi của học Phật tu nhân là báo đáp tứ ân (ân tổ tiên, cha mẹ; ân đất nước; ân Tam Bảo; ân đồng bào nhân loại).
4.2. Giáo luật Phật giáo Hòa Hảo
Phật giáo Hòa Hảo có 8 điều ngăn cấm
Phật giáo Hòa Hảo có 8 điều ngăn cấm, đó là:
● Không nên uống rượu, cờ bạc, thuốc phiện, chơi bời, đàng điếm, phải giữ trọng luân lý tam cương, ngũ thường.
● Không nên lười biếng, phải cần kiệm, sốt sắng lo làm ăn và lo tu hiền chân chất, không nên gây gổ lẫn nhau, hãy tha thứ tội lỗi cho nhau khi nóng giận.
● Không nên ăn xài chưng diện thái quá và lợi dụng tiền tải mà quên nhân nghĩa đạo, đừng ích kỷ và xua phụng kẻ giàu sang, phụ người nghèo khó.
● Không nên kêu Trời, Phật, thần, thánh mà sai hay nguyền rủa vì thần thánh không can phạm đến ta.
● Không ăn thịt trâu, bò, chó, sát hại vật mà cúng thần, hành vi thần thánh không bao giờ dùng hối lộ mà tha tội cho ta vì nếu ta làm sai sẽ chịu tội còn những hạng ăn đồ cúng mà hết bệnh là tà thần. Nếu ta cúng kiếng mãi thì chúng ăn quen sẽ nhiễu hại ta.
● Không nên đốt giấy, tiền vàng, bạc, giấy quần áo mà tốn tiền vô lý, vì cõi Diêm Vương không bao giờ ăn hối lộ của ta mà cũng không xài được, phải để tiền lãng phí ấy để cứu trợ cho những người đói rách, tàn tật.
● Đứng trước mọi việc gì về sự đời hay đạo đức thì phải suy xét cho minh lý rồi phán đoán việc ấy.
● Phải yêu thương lẫn nhau như con một cha, dìu dắt nhau vào con đường đạo đức. Nếu ai giữ được trọn lành, trọn sáng về nơi cõi Tây phương an dưỡng mà học đạo cho hoàn toàn đặng trở lại cứu vớt chúng sinh.
5. Các ngày lễ trong Phật giáo Hòa Hảo
Các ngày lễ trong Phật giáo Hòa Hảo
Các ngày lễ trong Phật giáo Hòa Hảo đều tính theo lịch âm. Trong một năm, các tín đồ Hòa Hảo sẽ có những ngày lễ sau:
● Tết Nguyên Đán: Ngày 1/1
● Lễ Thượng Ngươn: Rằm tháng giêng
● Ngày Đức Huỳnh Giáo chủ vắng mặt: 25/02
● Lễ Phật Đản: 08/04
● Lễ khai sáng Đạo Phật giáo Hòa Hảo: 18/05
● Lễ Trung Ngươn, Vu Lan Báo Hiếu: Rằm tháng bảy
● Vía Phật Thầy Tây An: 12/08
● Lệ Hạ Ngươn: Rằm tháng mười
● Lệ Phật Adida: 17/11
● Lễ Đản Sinh Đức Huỳnh Giáo Chủ: 25/11
● Lễ Phật thành đạo: Ngày 8 tháng chạp
Với các thông tin trên đây về Phật giáo Hòa Hảo, hy vọng sẽ giúp ích với bạn. Nếu có bất kỳ thắc mắc nào cần được giải đáp, quý bạn đọc hãy comment phía dưới, loiphong.vn sẽ hỗ trợ bạn nhanh chóng, miễn phí 100%. Truy cập loiphong.vn để có thêm nhiều thông tin hữu ích khác.