Ý nghĩa Duy ngã độc tôn - Thiền Sư Thích Thanh Từ.
Ngày Lễ Phật đản, chúng ta thường được nghe nhắc đến hình ảnh Đức Phật mới ra đời đi bảy bước, tay chỉ trời tay chỉ đất, nói: “Thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn”, đa số ai cũng thuộc lòng như thế.
Ngày trước khi tôi còn trẻ, có một vị Phật tử thắc mắc hỏi: “Bạch Thầy, thường bài kệ phải đủ bốn câu, sao bài kệ này có hai câu, còn hai câu nữa ở đâu?” Nghe hỏi vậy, tôi chỉ còn cách là xin hẹn về tìm lại, vì thật ra lúc đó tôi cũng chỉ thuộc có hai câu.
Sau này đọc kinh A-hàm, tôi mới giật mình thực tình mình dốt rõ ràng. Trong A-hàm có ghi bốn câu đàng hoàng, chớ không phải chỉ hai câu. Bốn câu đó nguyên văn chữ Hán là:
Chính bốn câu này mới nói lên hết ý nghĩa thâm trầm về câu nói của Đức Phật khi mới ra đời. Chúng ta sẽ thấy tinh thần Phật giáo Nguyên thủy và Phật giáo Phát triển sai biệt ở chỗ nào? Gần đây Phật tử hay hỏi: “Đạo Phật là đạo vô ngã, tại sao Đức Phật mới ra đời một tay chỉ trời, một tay chỉ đất nói “Duy ngã độc tôn”, như vậy Ngài đề cao cái ngã quá mức rồi, thế thì việc này có mâu thuẫn với giáo lý vô ngã không?”.
Đó là vấn đề mà tất cả huynh đệ cần phải nắm cho vững. Tra cứu lại tôi thấy rõ ràng, nếu xét về bốn câu kệ đó với tinh thần Nguyên thủy thì dẫn đủ bốn câu: “Thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn, nhất thiết thế gian, sinh lão bệnh tử”, nghĩa là trên trời dưới trời chỉ có ta là hơn hết. Tại sao ta hơn hết? Vì trong tất cả thế gian, ta đã vượt khỏi sanh già bệnh chết. Phật hơn tất cả thế gian vì Ngài đã qua khỏi sanh già bệnh chết. Đó là cái hơn theo tinh thần Nguyên thủy. Như vậy câu nói đó không phải đề cao cái ngã.
Tại sao chư Tổ Việt Nam không dùng hết bốn câu, lại dùng hai câu thôi, có ý nghĩa gì? Đâu phải các Ngài không đọc qua bài kệ đó, nếu chúng ta không nghiên cứu kỹ có thể bị nghi ngờ ở điểm này. Bởi vì tinh thần Phật giáo Phát triển đi thẳng vào ngã của Pháp thân, chớ không phải cái ngã của thân này. Nên nói “Thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn” là chỉ cho ngã Pháp thân.
Như chúng ta đã biết, ngã của thân tứ đại ngũ uẩn này vô thường sanh diệt, không có nghĩa gì nên giáo lý nói vô ngã. Vô ngã là vô cái ngã tứ đại ngũ uẩn, nhưng Pháp thân là thể bất sanh bất diệt, nó trên hết. Vì vậy Phật nói “Duy ngã độc tôn”. Trong kinh Kim cang có bài kệ “Nhược dĩ sắc kiến ngã, dĩ âm thanh cầu ngã, thị nhân hành tà đạo, bất năng kiến Như Lai”, tức là nếu dùng sắc thấy Ta, dùng âm thanh cầu Ta, người đó hành đạo tà, không thể thấy Như Lai. Như vậy chữ Ngã này chỉ cho ngã gì? Ngã của Pháp thân nên không thể dùng sắc tướng, âm thanh mà cầu. Nếu ai dùng sắc tướng âm thanh mà cầu Pháp thân, đó là tà.
Sự kiện Đản sinh của Đức Phật được nhiều kinh điển ghi lại như một huyền thoại. Các kinh Đại bản duyên (thuộc Trường A-hàm), kinh Đại bản (thuộc Trường bộ) đều ghi tương tự: “Khi Bồ-tát vừa mới hạ sinh, Ngài bước đi bảy bước, dưới mỗi bước chân nở ra một đóa hoa sen, đến bước thứ bảy thì dừng lại, một tay chỉ lên trời, một tay chỉ xuống đất, Ngài tuyên bố: Thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn”.
Chỉ phần sau câu tuyên bố của Bồ-tát trong hai kinh trên là có khác. Kinh Đại bản duyên ghi: “Bồ-tát khi sinh do hông phải của mẹ mà ra, chuyên niệm không tán loạn. Ngài từ hông phải ra, vừa đến đất, không cần người đỡ, liền đi bảy bước, nhìn khắp bốn phương, rồi đưa tay lên nói rằng: Trên trời dưới đất, duy chỉ có Ta là tôn quý. Ta sẽ cứu độ chúng sinh khỏi sinh, già, bệnh, chết” (HT.Thích Tuệ Sỹ dịch).
Còn kinh Đại bản ghi: “Bồ-tát khi sinh ra, Ngài đứng vững trên hai chân, mặt hướng phía Bắc bước đi bảy bước, một lọng trắng che trên. Ngài nhìn khắp cả mọi phương, lớn tiếng như con ngưu vương thốt ra lời như sau: Ta là bậc tối thượng ở trên đời! Ta là bậc tối tôn ở trên đời! Ta là bậc cao nhất ở trên đời. Nay là đời sống cuối cùng, không còn phải tái sinh ở đời này nữa” (HT.Thích Minh Châu dịch).
Nếu căn cứ theo mạch văn câu nói của Phật trong kinh Đại bản thì từ “ta” (ngã) là chỉ Đức Phật. Đức Phật tuyên bố Ngài là bậc tối thượng, tối tôn, cao quý nhất trên đời. Đời sống này là đời sống cuối cùng của Ngài, sau đời sống này Ngài không còn tái sinh trở lại thế gian nữa. Đó tuyệt nhiên không phải là lời nói ngã mạn, tự cao tự đại, mà là lời nói khẳng định sự thật. “Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn” có nghĩa là trên trời dưới thế chỉ có Ta là bậc tôn quý đáng kính. Chữ “độc tôn” chỉ vị trí tôn kính duy nhất, chỉ một mà không có người thứ hai, điều này Đức Phật cũng đã khẳng định trong nhiều kinh chứ không chỉ trong lời tuyên bố này.
Đức Phật là một chúng sinh giác ngộ và chứng nhập chân lý, thành tựu đạo quả Vô thượng Bồ-đề mà chưa một chúng sinh nào trong hiền kiếp hiện tại có khả năng làm được điều đó. Ngài là bậc thầy của trời người, là bậc có trí tuệ và đức hạnh đầy đủ, bậc không có người vượt qua, bậc đáng tôn trọng nhất trên thế gian, bậc đáng được cúng dường, là bậc tự tại trong ba cõi thì quả thật chỉ có Ngài ở vị trí độc tôn chứ không còn ai nữa.
Trong kinh Tăng chi bộ I, Đức Phật đã từng xác định: “Sự kiện này không xảy ra, này các Tỳ-kheo, không có được trong một thế giới có hai vị A-la-hán Chánh đẳng giác (Phật), không trước không sau, xuất hiện một lần. Sự kiện này không xảy ra. Và sự kiện này có xảy ra, này các Tỳ-kheo, trong một thế giới chỉ có một vị A-la-hán Chánh đẳng giác xuất hiện, sự kiện này có xảy ra” (HT.Thích Minh Châu dịch). Như thế có thể nói vị trí của Đức Phật trong hiền kiếp hiện tại ở thế giới Ta-bà này là độc nhất vô nhị.
Cũng trong kinh Tăng chi bộ I, Đức Phật giải thích rõ tại sao Ngài là người vô song, là người độc nhất vô nhị, đây là sự thật chân lý về Phật bảo: “Một người, này các Tỳ-kheo, khi xuất hiện ở đời là xuất hiện một người không hai, không có đồng bạn, không có so sánh, không có tương tự, không có người ngang hàng, đặt ngang hàng, là bậc tối thượng giữa các loài hai chân. Một người ấy là ai? Chính là Như Lai, bậc A-la-hán Chánh đẳng giác, người này khi xuất hiện ở đời là xuất hiện một người không hai, không có đồng bạn, không có so sánh, không có tương tợ, không có người ngang hàng, không có ai đặt ngang hàng, ngang bằng tối thắng, bậc tối thắng giữa các loài hai chân”.
Kinh Trung bộ III, Đức Phật nói rõ nguyên nhân vì sao Ngài là bậc vô song, độc nhất vô nhị: “Không thể có một Tỳ-kheo, này Bà-la-môn, thành tựu một cách trọn vẹn, một cách đầy đủ tất cả các pháp mà Thế Tôn bậc A-la-hán Chánh đẳng giác đã thành tựu. Này Bà-la-môn, Thế Tôn là bậc làm khơi dậy con đường trước đây chưa được hiện khởi, làm cho biết con đường trước đây chưa từng được nói, là bậc hiểu đạo, biết đạo và thiện xảo về đạo. Và này, các đệ tử là những vị sống hành đạo và tùy hành, sẽ thành tựu đạo quả”. Vì những điều đó mà Đức Phật là một bậc tối tôn vô thượng.