“Tiên là tích đức, sau là tìm long”
-1230x987.png)
“Đạo cao, đức trọng, chưng thân.
Hổ long liên phục, quỷ thần liên kinh.
Đức, nhân vốn ở cả mình.
Tiên là tích đức, hậu là tầm long”.
Theo TS Nguyễn Hoàng Điệp - Giám đốc Trung tâm dịch thuật, dịch vụ Văn hóa và Khoa học Công nghệ thì “Trấn yểm phong thủy được xem là một môn khoa học chứ không hẳn là tâm linh. Trong đó, những thầy địa lý phong thủy ngoài vốn kiến thức am tường về kiến trúc, hướng gió, mạch nước thì họ còn biết cách thu hút khí tốt, năng lượng tốt phục vụ tốt hơn cho đời sống con người”.
Theo TS Nguyễn Hoàng Điệp - Giám đốc Trung tâm dịch thuật, dịch vụ Văn hóa và Khoa học Công nghệ thì “Trấn yểm phong thủy được xem là một môn khoa học chứ không hẳn là tâm linh. Trong đó, những thầy địa lý phong thủy ngoài vốn kiến thức am tường về kiến trúc, hướng gió, mạch nước thì họ còn biết cách thu hút khí tốt, năng lượng tốt phục vụ tốt hơn cho đời sống con người”.
Tả Ao tiên sinh, tên thật là Nguyễn Đức Huyên, người làng Tả Ao,
huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Ông sinh vào thời vua Lê chúa
Trịnh (1545 – 1788), là một bậc thầy phong thủy nổi tiếng nhất nhì nước
Việt. Nhà Tả Ao nghèo, cha mất sớm còn mẹ bị bệnh lòa mắt,
vì thế nên ông đến giúp việc cho một ông thầy thuốc ở trong huyện, trước lấy tiền trị mắt cho mẹ sau học thêm được
nghề bốc thuốc chữa bệnh. Chính vì thế mà ông chữa được
bệnh mắt lòa cho mẹ.
Ông
thầy thấy Tả Ao có chí lớn, nên đã dẫn ông theo để dạy thêm nghề thuốc. Gần
nhà ông thầy thuốc, có một thầy địa lý rất giỏi, cũng đang
bị bệnh về mắt, Tả Ao liền được thầy phái sang chữa trị thay
ông ta.
Thầy
địa lý nói rằng, nếu Tả Ao chữa khỏi bệnh mắt cho mình thì
ông sẽ thưởng 50 lượng vàng. Tả Ao nhờ kinh nghiệm chữa khỏi
bệnh mắt cho mẹ, nên đã chữa khỏi bệnh cho thầy địa lý, nhưng
ông không nhận vàng mà chỉ xin ông ta truyền cho nghề xem phong
thủy.
Vì
ơn nghĩa, nên thầy địa lý bằng lòng, truyền dạy hết tinh hoa
địa lý phong thủy cho Tả Ao, đến khi học thành tài, ông xin cả 2
ông thầy cho về nước.
Trước
khi cho Tả Ao về Việt Nam, ông thầy địa lý muốn thử lần cuối
sự hiểu biết của Tả Ao, ông ta làm ra 100 mô hình đất kết trên
bãi cát, dưới mỗi huyệt có yểm một đồng tiền, rồi đưa Tả Ao
100 cây kim ra đó tìm huyệt để điểm.
Tả
Ao điểm đúng 99 lỗ của đồng tiền, còn một cây điểm ở mép, mà
huyệt này lại là huyệt thứ 100. Đây là huyệt ảo, vì mô hình
tạo dáng rất huyền bí, ẩn hiện dưới những mô đất nhấp nhô,
những thầy địa lý giỏi cũng khó phát hiện ra đúng huyệt đạo.
Khi
Tả Ao về đến quê hương, ông chỉ lo hành nghề bốc thuốc, ít khi
sử dụng đến khoa địa lý, chỉ khi nào cần thiết ông mới ra tay
xem thế đất giùm mọi người, tuy vậy danh tiếng xem địa lý,
phong thủy của Tả Ao lại nổi hơn nghề thầy thuốc.
Cũng
chính vì ông không hành nghề xem phong thủy cho ai, nên không có
hậu bối. Khi Tả Ao mất người nhà chỉ tìm thấy 2 bộ sách viết
về địa lý phong thủy, là Địa đạo diễn ca và Dã đàm Tả Ao.
Nhưng trong dân chúng có nhiều sách được in ra nói là sách do
chính Tả Ao viết. Còn các nhà địa lý phong thủy, khi đọc xong 2
quyển sách trên, đều cho đây là sách quý.
Hành thiện giúp đời
Ngày
nay ở Việt Nam vẫn còn nhiều truyền thuyết, giai thoại được sách vở
ghi lại, truyền miệng trong dân gian như việc Tả Ao tìm nơi đất tốt để
đặt đình chùa, đền miếu, mồ mả, nhà cửa; giúp dân nghèo, trị kẻ gian
ác… Một trong những câu chuyện ấy là huyền thoại giếng mắt cá của làng
Hành Thiện ở huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định.
Trải
qua bao đời, người dân làng Hành Thiện giờ đây vẫn kể lại, một lần khi
đi tới phủ Xuân Trường, ngài Tả Ao phải đi đò sang sông, đến gần bến
thì phải lội xuống bùn mới lên được bờ. Lúc ấy một người khách người
làng Hành Thiện đi cùng chuyến đò đã hào hiệp cõng ông qua quãng lầy
lội. Khi
tới làng Hành Thiện ông lại được người dân khoản đãi nồng hậu. Trước
tấm lòng mến khách, hào phóng và trượng nghĩa của người dân nơi đây, Tả
Ao mới ngỏ ý xem xét thế đất cho họ.
-1228x974.png)
Sau khi ngắm hướng, Tả Ao
tới chỗ mỏm đất trước cửa đền Thần Hoàng, nói rằng vì con cá còn thiếu
mắt, nên cần đào giếng làm mắt cá. Sau khi đào xong, ông dặn dò dân
làng, cần phải giữ sạch sẽ vì giếng nước này rất thiêng, nếu được vậy
thì trong làng ắt có người làm thầy, làm quan, giàu có nhất vùng. Quả
nhiên lời Tả Ao ứng nghiệm, từ ngày đào giếng, Hành Thiện ngày càng
thịnh phát, nổi tiếng là ngôi làng Nho gia, nam thì học hành thi cử đỗ
đạt, nữ thì dệt lụa ươm tơ.
Theo
Hội trưởng Hội khuyến học làng Hành Thiện, ông Nguyễn Đăng Hùng tổng
kết, thời phong kiến Hành Thiện có 419 người đỗ đạt, trong đó 7 người
đỗ đại khoa với 3 tiến sĩ, 4 phó bảng, 97 cử nhân, 315 tú tài.

Tả Ao cứu vua nhờ mộ kết
Một
ngày nọ thầy phong thủy Tả Ao đi ngao du sơn thủy, tuổi tuy đã già
nhưng dáng người vẫn quắc thước khoẻ mạnh, khi ông đi đến một làng quê
nọ, trời nắng nóng nên ghé vào ngồi nghỉ mát dưới gốc cây đa bên làng,
ông nhìn thấy một anh nông dân đang miệt mài cày ruộng, đến khi mặt trời
đứng bóng mới chịu tháo cày cũng vào gốc đa ngồi mở cơm nắm ra ăn.
Thấy
một ông lão cùng ngồi ở đó nhưng không ăn uống gì cả, anh ta mới lên
tiếng hỏi: “Xế trưa rồi ông không dùng cơm sao, hay là ông không sẵn
mang theo, thôi cùng nắm cơm này ăn với cháu cho vui”.
Anh nông dân vừa giở cơm, vừa mau mắn mời ông lão: “Cháu mời ông dùng cơm…”
Thấy
thái độ anh nông dân dễ mến, Tả Ao không khách khí, bèn vui vẻ ngồi lại
cùng ăn. Bốn năm ngày như vậy, anh nông dân vẫn một lòng kính trọng Tả
Ao, mời cơm và ông cũng không lần nào từ chối.
Đến
bữa cuối cùng, bỗng ông nói với anh nông dân: “Chắc anh vẫn không biết
ta là ai? Ta chẳng giấu gì anh, ta chính là thầy phong thủy Tả Ao đây”.
Anh
nông dân nghe danh Tả Ao đã lâu, nay có dịp diện kiến nên vừa mừng vừa
hốt hoảng, liền cúi đầu xin ông tha lỗi. Tả Ao đỡ anh nông dân đứng dậy
nói tiếp: “Ta xem anh là người có đức nên có ý giúp anh đặt một ngôi mộ
sau này sẽ phát phúc, phát tài, cho anh nở mặt với thiên hạ”.
“Ông
dạy quá lời, nhà cháu mấy đời nay đều là nông dân chân lấm tay bùn, bần
hàn, đi cày thuê cuốc mướn kiếm cơm qua ngày, mong gì nở mày nở mặt với
ai”.
“Anh
cứ yên tâm. Ta nói sẽ giúp anh được giàu sang phú quý trong vòng 100
ngày thôi. Nào anh hãy dẫn ta ra nơi mộ của cha mẹ của anh đi, ta xem
thế nào sẽ sửa cho”.
Anh
nông dân mừng rỡ bèn nghe theo lời Tả Ao, dẫn ông đi ra mộ của cha
mình. Tả Ao xem xong mới nói: “Mộ đặt nơi thế đất không tốt, suốt đời sẽ
bần hàn cơ cực. Phải đào lên cải táng, di dời qua nơi đất khác mà
thôi”.
Nói rồi bảo anh nông dân đào mộ lên, xếp xương cốt vào một chiếc hũ đất đem đi chôn ở một huyệt đất mà Tả Ao đã chọn sẵn.
Xong
đâu đấy, Tả Ao căn dặn: “Anh nhớ không cho ai biết chuyện này! Một trăm
ngày nữa, vào ngày Mùi tháng Ngọ, đúng giờ Tý anh phải có mặt ở kinh
đô, đứng ở hướng Đông. Hễ gặp một người đàn ông mặc áo trắng, đi hài
xanh, từ trong thành chạy ra với bộ mặt hốt hoảng, thì anh cứ chạy lại
bảo: ‘Con xin cứu ngài!’, rồi cõng thẳng về giấu trong nhà, ngày ngày lo
cơm nước cho tử tế. Anh cứ thế mà làm, đừng suy nghĩ gì hết!”.
Nói
xong, Tả Ao từ biệt anh nông dân mà đi thẳng, về sau anh ta có đi tìm
nhưng chẳng biết ông đi về đâu. Đúng như lời dặn của Tả Ao, đúng ngày
giờ anh nông dân ra kinh đô đứng đợi ở cửa Đông. Bỗng nghe có náo động
từ trong thành vọng ra nào tiếng chiêng, tiếng trống, tiếng quân reo hò,
tiếng người gào thét, rồi lửa bốc cháy đỏ rực một góc trời.
Và
quả nhiên, một người đàn ông dáng thư sinh mặc áo trắng, đi hài xanh,
hớt hải một mình chạy qua gần chỗ anh nông dân đang đứng. Anh ta chỉ đợi
có thế bèn chạy đến bên nói to: “Thưa ngài, con xin cứu ngài!”
Nói
đoạn ghé vai cõng người ấy chạy một mạch về giấu trong nhà. Người ấy có
vẻ sợ hãi, suốt ngày im lặng nghe ngóng động tĩnh. Anh nông dân cũng
chẳng hỏi thân thế của người đàn ông ấy đang lo sợ đến quên ăn mất
ngủ.Vài ngày sau bỗng có loa truyền rằng, ai đang giữ vua ở đâu thì báo
cho quan quân kịp đưa vua về kinh.
Lúc
ấy ông khách mới nói cho anh nông dân biết mình chính là vua, mấy ngày
trước đây bị bọn gian thần định soán ngôi. Rồi nhà vua sai anh ta đi báo
cho quan quân biết nơi vua đang ở ẩn. Khi quan quân đến rước vua, vua
cho phép cả anh nông dân cùng đi theo mình về kinh thành.
Tại
kinh đô vua thiết triều, trấn an trăm họ và phong cho vị ân nhân là anh
nông dân được làm quan đến chức nhị phẩm, cùng vàng bạc lụa là nhiều vô
số kể. Thì ra ngôi mộ mà Tả Ao đặt cho người cha anh nông dân, kết phát
y như lời ông nói khi trước, chỉ trong vòng 100 ngày.
Dạy dỗ kẻ tham lam
Một
hôm Tả Ao đang đi đến vùng đất nọ. Thấy ngôi đình làng ở đây
đặt hướng bị thất cách, ông đứng ngắm mãi rồi đến gần để xem
cho rõ. Các vị chức sắc trong làng biết danh Tả Ao nên khẩn khoản nhờ
ông đổi lại hướng đình làng để cả làng phát khoa bảng, muốn đè đầu
cưỡi cổ thiên hạ một phen cho họ biết tay.
Tả
Ao nghe xong chỉ cười, sau đó ra trước sân đình đặt tróc long định
hướng, rồi cắm hướng mới cho ngôi đình. Xong cáo biệt đi
thẳng. Mấy tháng sau khi đình đã được xoay ngôi đổi hướng, các
vị chức sắc kỳ mục không nói cho dân làng nghe chuyện, mà chỉ
dặn con cháu ra công đèn sách nay mai ứng thí.
Nhưng
không hiểu sao, tất cả đám con trai, từ lớn đến bé hễ cầm
quyển sách định học, nhưng học mãi mà chữ nghĩa chẳng vào
đầu. Các thầy đồ được mời đến dạy cũng thở dài ngao ngán.
Rồi thay vì sách vở bút nghiên, càng ngày càng có nhiều anh
con trai con các chức sắc kỳ mục rủ nhau đi sắm hòm đồ nghề
thợ cạo, xách đi khắp nơi hớt tóc dạo. Trong lúc hành nghề,
họ tha hồ mà “đè đầu đè cổ” thiên hạ.
Các
cụ chức sắc lúc ấy mới hiểu ra cái thâm ý của thầy Tả Ao
trước đây. Nhưng cũng hiểu rõ, tại họ quá tham lam, chỉ biết tư
lợi cá nhân, nên mới bị Tả Ao dạy dỗ. Từ đó có giai thoại Tả Ao
chuyên dùng phép trị kẻ tham, kẻ ác.
Theo sách vở và cả truyền miệng thì Tả Ao có những tên sau: Vũ Đức
Huyền hiệu Địa Tiên, Nguyễn Đức Huyền hiệu Phủ Hưng, Hoàng Chiêm, Hoàng
Chỉ. Ông sinh vào thời Lê sơ (1428-1527), có sách nói thời Lê – Mạc
(1533-1592), thời Lê – Trịnh – Nguyễn (1592-1789), có người khẳng định
ông sinh năm Nhâm Tuất (1442) có sách còn nói Tả Ao và Cao Biền thi thố
tài năng (tức là đời nhà Đường ở thế kỷ IX). Tuy nhiên, qua những chuyện
kể có liên quan đến Mạc Kinh Độ nên hiện nay người ta dễ chấp nhận ông
sinh vào thời Lê sơ. Quê quán, có sách nói ông sinh ở làng Tả Ao (Hà
Tĩnh). Có sách lại nói gốc ở Sơn Nam (vùng Hải Dương, Hưng Yên), sau đó
gia đình phiêu bạt và định cư ở làng Tả Ao. Do các sách đều ghi Vũ Đức
Huyền (hợp với ngoài Bắc còn miền Trung trở vào là họ Võ). Từ suy đoán
này có thế chấp nhận ông sinh ở vùng Sơn Nam (Hải Dương, Hưng Yên) phiêu
bạt và định cư về xã Ao Cầu (sau này tách thành 2 xã Tả Ao và Tiên
Cầu), phủ Đức Quang, trấn Nghệ An, nay là xã Xuân Giang, huyện Nghi
Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Ở đây có đền thờ Tả Ao, giếng Tả Ao.
Ở thôn
Nam Trì, xã Đặng Lễ, huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên có đền thờ 3 thượng
đẳng phúc thần: Tể tướng Lữ Gia (Bảo Công), tướng Nguyễn Danh Lang (Lang
Công) và Cao Biền (Cao Vương) và Bản cảnh thành hoàng Tả Ao. Bởi nơi
đây Tả Ao đã chọn đất lập làng để làng thịnh vượng và phát triển.
Tả
Ao được coi là ông tổ của nghề địa lý phong thủy Việt Nam. Xuất thân
từ một cậu bé nghèo trở thành nhà phong thủy kiệt xuất, Tả Ao đã dùng
tài năng của mình giúp đỡ nhiều miền quê, dòng họ đất Việt phát đạt,
hiển vinh. Từ mỗi vùng đất ông đi qua đều viết nên huyền thoại, những
câu chuyện nhuốm màu liêu trai mà đến nay dân gian vẫn lưu truyền.