Tủ Sách Thientamism

Sự Tích Những Cộ Bông Trong Hội Yến Diêu Trì

Đăng lúc: 03:40 AM 14/11/2017 0   1396

Cùng Chủ Đề

Phương Pháp Học Thuộc Lòng Chú Thủ Lăng Nghiêm
Chú Lăng Nghiêm (tiếng phạn: Shurangama Mantra) – Thần Chú Uy Lực...
Phật Nói Uy Lực Của Lăng Nghiêm Thần Chú
Phật nói về uy lực của Thủ Lăng Nghiêm Thần Chú.Khi nào còn...
Nhiên Đăng Cổ Phật
NHIÊN ĐĂNG CỔ PHẬT LÀ AI?Phật Truyện:Hồi lúc Đức Thích Ca còn...
(NGÀY 15 THÁNG 8 BÍNH THÂN)

CỘ BÔNG HÌNH ĐỨC PHẬT MẪU VÀ CỬU VỊ NỮ PHẬT

Đức Diêu Trì Kim Mẫu: -Là mẹ sanh của toàn thiên hạ, Chưởng  Quản Tạo Hóa Thiên, ai đã đến thế gian nầy đều phải nhờ ơn Phật Mẫu, vì các nguyên nhân nơi Tạo Hóa Thiên đều do Phật Mẫu lựa chọn cho xuống trần chịu khổ học khôn cho tới đoạt thành Phật vị. Ơn tạo hình hài, ơn dưỡng nuôi giáo hóa và ơn dìu dẫn thoát trần của Phật Mẫu thật là vô lượng vô biên.

Hai chữ Kim Mẫu là hai chữ nói tắt, chính thật là Kim Bàn Phật Mẫu, trong Di Lạc Chơn Kinh có chỉ rõ. Bởi vậy nơi cõi trần Phật Mẫu là mẹ của toàn nhân loại, mà nơi cõi hư linh Phật Mẫu là mẹ của các Thần, Thánh, Tiên, Phật.

Bà Nhứt Nương:-Cầm cây đờn Tỳ Bà Chưởng Quản Vườn Ngạn Uyển xem xét cho biết số nguyên nhân tái trần hay qui vị. Mỗi đóa sen trong vườn Ngạn Uyển là một chơn linh, khi chơn linh tái trần thì hoa nở, khi chơn linh qui vị thì hoa tàn.

Bà Nhị Nương:-Cầm Lư Hương Chưởng Quản Vườn Đào của Tây Vương Mẫu ngự tầng Thiên thứ hai. Tiếp các chơn hồn qui Thiên, mở tiệc Trường Sanh (Bàn Đào) và đưa các chơn hồn đến Ngân Kiều cõi Kim Quan triều kiến Ngọc Hư Cung.

Bà Tam Nương:-Cầm quạt Long Tu, thả Thuyền Bát Nhã nơi bể khổ, đến nẻo cửu tuyền độ các chơn hồn qui nguyên “Chở cho khách tục cửu tuyền ngăn sông”.

Bà Tứ Nương:-Cầm Kim Bản, làm giám khảo tuyển chọn các văn tài trong mỗi khoa thi, ai có đức và học giỏi mới được chấm đậu “Vàng treo nhà ít học không ưa”.

Bà Ngũ Nương:-Cầm Như Ý ra lịnh cho các Đấng Thiêng Liêng tiếp các nguyên hồn về cõi Xích Thiên, khai kinh vô tự đặng xem quả duyên của chơn linh và đưa các chơn hồn đắc Đạo triều kiến Đức Chí Tôn “Dựa xe Như Ý Oai Thần tiễn thân”.

Bà Lục Nương:-Cầm Phướn Tiêu Diêu (Phướn Truy Hồn) độ dẫn khách trần tiếp các chơn hồn hữu căn về đến cõi Kim Thiên, dẫn đến đài Huệ Hương xong thơm linh thể, và ra lịnh trổi Thiên Thiều đưa các chơn hồn đến Tây Phương Cực Lạc.

Bà Thất Nương:-Cầm Bông Sen khêu đuốc Đạo buổi sơ khai, và tình nguyện lãnh lịnh Thiên Điều đến Âm Quang độ rỗi các tội hồn khi giác ngộ lại chỉ chỗ đầu thai đặng theo Đạo lần về cựu vị (Nhứt là Nữ phái).

Bà Bát Nương:-Cầm giỏ Hoa Lam (Hớn Liên Hoa), một Đấng Thiêng Liêng rất linh hiển, dày công giáo hóa buổi Đạo khai, có phận sự độ rỗi các nguyên nhân tại thế, nhứt là Nữ Phái, và tiếp đưa các chơn hồn qui vị về tới Phi Tưởng Thiên đến Cung Tận Thức dự tiệc thoát trần (Tiên tửu nơi Phi Tưởng Thiên là nước Cam Lồ). Ai có việc chi đến cầu khẩn nơi Bát Nương thì đắc nguyện một cách rất linh hiển.

Bà Cửu Nương:-Cầm Ống Tiêu, có phận sự giác ngộ của chơn linh đọa lạc nơi trần thế.

Tóm lại các nghề hay nghiệp khảo về nữ công hoặc cầm kỳ thi họa và triết học văn chương đều nhờ Cửu Vị Nữ Phật giáo hóa và ung đúc cho thành tài.

 

 CHIM BỒ CÂU NGẬM CỜ HÒA BÌNH ĐỨNG TRÊN TRÁI ĐẤT

Lúc Đức Thích Ca tham thiền dưới cây đại thọ, Đức Phật … định giữ căn tu của Ngài, mới hóa ra con Bồ Câu bị con Ó rượt bắt ăn thịt, con Bồ Câu không chống cự, chỉ bay tìm nơi thoát thân lánh cơn nguy hiểm đáp ngay chỗ thiền định của Phật. Phật thấy Bồ Câu quá hiền lành, động lòng từ bi Đức Phật mới kêu chim Ó mà phán rằng: “Nhà ngươi nên tha cho kẻ hiền lành”.

Ó trả lời: “Đời tôi sống phải nhờ loại vật nhỏ để nuôi thân, tha thì lấy gì đặng sống?”

Đức Phật giảng giải: “Nếu nhà ngươi tha cho chim Bồ Câu được sống thì ta sẽ lóc thịt của ta cho mi đỡ dạ.”

Tóm lại chim Bồ Câu có tính chất hiền lành, nên đời lấy nó làm tượng trưng cho hòa bình, đây chim Bồ Câu ngậm cỏ hòa bình đứng trên trái đất có ý nghĩa là Hội Thánh cầu nguyện cho toàn nhơn loại trên quả địa cầu được hòa bình đại đồng thế giới.

 

CỘ BÔNG TAM THÁNH KÝ HÒA ƯỚC

Đức Thanh Sơn Đạo Sĩ:-Tự là Nguyễn Bỉnh Khiêm tục gọi Trạng Trình sanh tại Bắc Việt nước Việt Nam đời Hồng Đức vua Lê Thánh Tông nhờ thông suốt bộ Thái Ất Thần Kinh mới suy đoán đặng lẻ âm dương thạnh suy của tạo hóa. Được nổi danh là nhà huyền bí tiên tri độ nhứt dân  tộc Việt Thường. Ngài tự tâm giác ngộ lánh xa đường danh nẻo lợi về ẩn Bạch Vân Am để tu tâm luyện tánh và đoạt Đạo. Trước tác bộ Bạch Vân Thi Tập, ngày nay vẫn còn noi truyền là Quốc Sư của thiên hạ.

Buổi Tam Kỳ Phổ Độ Ngài lãnh trách nhiệm trọng yếu là Sư Trưởng tại Bạch Vân để khai cơ chuyển thế kỳ ba.

Đức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn:-Tự là Victor Hugo sanh tại nước Pháp nhờ sự bác học uyên thâm được nổi danh văn hào thi sĩ đệ nhứt của dân tộc Pháp. Ngài quyết chí binh vực quyền lợi cho dân vì thế mà bị lưu đày nên gây được cảm tình với nhơn loại trên đường công lý.

Buổi Tam Kỳ Phổ Độ đắc lịnh Đức Chí Tôn giáng cơ truyền Đạo lập thành Hội Thánh Kim Biên đưa lối cho Hội Thánh trên đường ngoại giao mở mang Đạo cả.

Đức Tôn Sơn Chơn Nhơn:-Tự là Tôn Dật Tiên kêu là Tôn Văn, sanh tại Trung Quốc đời vua Tuyên Thông nhà Thanh, nhờ có đại chí hòa hiệp các bậc chơn thành cách mạng nên giải phóng được trên năm trăm triệu đồng bào thoát khỏi ách đô hộ của nhà Thanh để lập thành Trung Hoa Dân Quốc với chủ nghĩa Tam Dân.

Tóm lại: Hiện nay Tam Thánh có trách nhậm độ rỗi các bực nguyên nhân hữu căn còn lẫn lộn khắp hoàn cầu đưa vào khuôn linh của Thiên Tâm Đại Đạo


CỘ ĐỨC PHẬT THÍCH CA

Đức Phật Thích Ca giáng sanh tại Ấn Độ là Thái Tử Sĩ Đạt Ta con vua Tịnh Phạn, được Phú Hữu Tứ Hải, nhưng xem cuộc đời là mộng ảo, con người chỉ bị giam hãm trong vòng tứ khổ: Sanh, Lão, Bệnh, Tử giác ngộ nên xóa vinh hoa phú quí đền đài lầu các, chịu khổ hạnh 6 năm nơi Tuyết San, sau khi thiền định 49 ngày dưới cội Bồ Đề, Ngài được giải thoát chứng quả Như Lai, dày công phổ hóa chúng sanh, lập thành Phật giáo tại xứ Ấn Độ, truyền bá đến Trung Hoa, sang Việt Nam v.v…

Vì được khắp cả nhơn sanh trọng Pháp nên Tử Độ đều tôn thờ Ngài là Như Lai Phật Tổ, tức là Phật giáo chấn hưng. Đức Thích Ca có sứ mạng độ rổi nhơn sanh thoát khỏi kiếp luân hồi nơi trần tục.

 CỘ BÔNG TÍCH ĐỨC BRAHMA  PHẬT

Đức Brahma Phật lúc tạo thiên lập địa Nhứt Kỳ Phổ Độ, Đức Ngài đứng chính giữa trái đất bốn phương trời chấp tay bắt ấn tý niệm kinh xuất hiện biến ra diệu pháp mà cứu độ chúng sanh.

 

 CỘ BÔNG ĐỨC PHẬT DI LẠC LÂM PHÀM

Lúc hổn độn sơ khai buổi tạo thiên lập địa nơi quả địa cầu 68 nầy chưa có nhân loại, thì Đức Di Lạc Vương Phật vâng lịnh Đức Phật Mẫu làm chủ Bát Nhã Thuyền chở trăm ức nguyên nhân xuống thế.

Trải qua hai kỳ Long Hoa Đại Hội, Thượng Ngươn và Trung Ngươn, chỉ độ rỗi được 8 ức nguyên nhơn, còn lại 92 ức chưa về ngôi vị đặng.

Nay cuối tam ngươn, bắt đầu ngươn tứ chuyển lại nhằm thời kỳ đại ân xá, Đức Ngài vâng lịnh Ngọc Hư Cung làm chủ Bát Nhã Thuyền một lần nữa để rước cửu nhị ức nguyên nhân về và độ rỗi chúng sanh.

Hơn nữa Tam Kỳ Long Hoa Đại Hội Đức Ngài trọn quyền làm chủ khảo để định vị cho con cái của Đức Chí Tôn trong trường Phổ Độ Kỳ Ba nầy. Vậy nên kinh Đại Tường có câu:

“Di Lạc Vương thâu thủ phổ duyên,

“Tái sanh sửa đổi chơn truyền,

“Khai cơ tận độ cửu tuyền diệt vong.

“Hội Long Hoa tuyển phong Phật vị…

 

 

 CỘ BÔNG ĐỨC LÝ NGƯNG VƯƠNG ĐẮC ĐẠO

Đức Lý Ngưng Vương tục gọi là Đức Lý Thiết Quả hay là Xích Hoài vị Tiên lớn làm đầu trong Bát Tiên, lúc xuất hồn về Thầy chưa đúng ngày giờ bị học trò thiêu xác, khi trở lại phải nhập xác người cùi què một chơn, Ngài thường để bước ngao du khắp cùng trời đất, vui thú với nước biết non xanh, vai mang bầu phép, tay chống gậy tre tìm kẻ hữu duyên độ qua bể khổ nên có bài thi rằng:

“Trời đất riêng tay giữ một bầu,

“Ngàn mây dặm gió gót chơn thâu.

“Rừng tòng thong thả nhàn ra dạo,

“Đền Ngọc thung dung rảnh đến chầu.

“Thoát tục sớm điều nên bãy bạn,

“Dẫn phàm nay dạo khắp năm châu.

“Thế trần mừng gặp Tam Kỳ Độ,

“Biển khổ thuyền đưa khách lánh sầu.

 

 

 CỘ BÔNG TÍCH LỤC TỔ HUỆ NĂNG

Kể từ lúc Đức Phật Thích Ca ra đời cho đến Lục Tổ Huệ Năng thì chơn pháp của nhà Phật vẫn còn huyền bí cao siêu, từ đó đến sau diệu pháp không còn như trước nữa là vì khi Đức Ngũ Tổ Huỳnh Mai tức là Hoàng Nhẫn gần ngày điểm Đạo đã cho môn đồ có phán bảo mỗi đệ tử làm một bài kệ về chơn lý của nhà Đạo.

Thần Tú làm chức Giáo Thọ trong nhà Thiền viết trước cửa chùa bài kệ:

Thân như Bồ Đề Thọ,

Tâm như Minh Cảnh Đài.

Thời thời thường phất thức,

Bất nhá nhập trần ai.

Nghĩa là:

Thân là cội Bồ Đề,

Tâm như đài Minh Cảnh.

Giờ giờ hằng trau giồi,

Không để nhiễm bụi nhơ.

Huệ Năng thì dốt nát đến chùa tu chỉ biết làm công quả lãnh phần giả gạo cho 500 bần Đạo ăn, vì không biết chữ nên cậy Tiểu Tăng Trương Nhật Dụng viết dùm bài kệ:

Bồ Đề bổn vô thọ,

Minh cảnh diệc phi Đài.

Bổn lai vô nhứt vật,

Hà xứ nhá trần ai.

Nghĩa là:

Bồ Đề chẳng có cây,

Minh Cảnh cũng không Đài.

Đoạt lý không còn vật,

Cần chi lánh trần ai.

Tóm lại bài kệ Đức Ngũ Tổ biết Thần Tú còn phàm tục tự đắc khoe khoang, còn Huệ Năng giác ngộ được Phật tánh nên bài kệ đoạt được Pháp chơn Như Lai, nên Ngài biểu lấy nước rửa bài của Huệ Năng, vì sợ Huệ Năng bị Thần Tú giết. Ngài lấy gậy đánh đầu Huệ Năng ba lần, Huệ Năng bị 3 gậy đoạt được ý Phật nên thừa lúc canh ba vào am Ngũ Tổ được Ngũ Tổ cho thọ Y Bát chơn truyền tức là bí pháp của Phật cho Huệ Năng để đoạt chơn truyền của Đạo Phật. Như vậy Y Bát được truyền đến Lục Tổ Huệ Năng là dứt về sau không còn truyền lại cho ai nữa.

Sau nầy Thần Tú lập Đạo Thiền, cải cách âm thinh sắc tướng ca điệu Phật Tự mở phướn xá chay đàn.

Tóm Lại:

Đức Lục Tổ Huệ Năng đắc Đạo chỉ nhờ làm công quả giả gạo cho 500 bổn Đạo ăn tức là hiến trọn hình hài xác thổ làm con tế vật cho Phật sai khiến, cũng như anh em chúng ta hiện giờ đã đặt trọn thân vào đường công quả để cho Đức Chí Tôn sử dụng, hầu hoằn khai chánh giáo thì nên noi gương sáng của Đức Lục Tổ Huệ Năng mà hành Đạo.

 

 

 CỘ BÔNG NGŨ ĐẾ GIÁNG TRẦN

Hồi đời phong kiến Xuân Thu cơ Trời định Tần Thủy Hoàng gồm thu Lục Quốc, nhưng chưa đến ngày giờ, nên bị Liễu Nhất Chơn Nhơn Tôn Tẩn chống quân ở nước Triệu và nước Tề.

Cũng vì binh đệ tử mà hai vị Lão Tổ là Hải Triều Thánh Nhơn và Chưởng Giáo Nam Cực Tiên Ông đấu phép tranh tài làm cho chư Tiên lâm khổ nạn.

Tại nước Tề nơi Thành Lâm Trị Chưởng Giáo Nam Cực bài trận Kim Quan Tụ Tiên vây khổn thầy trò của Hải Triều Thánh Nhơn, xúc tình đồng Đạo môn nên Ngũ Lão tức là Ngũ Đế : Đông Ba Đế Quân, Tây Ba Đế Quân, Nam Ba Đế Quân, Bắc Ba Đế Quân và Trung Ba Đế Quân  gián trần phá trận cứu Hải Triều rồi lập trận Xum La vây lại Nam Cực và các Tiên.

Sau nhờ 5 vị tiểu chúa Tây Thiên ở núi Tạo Hóa Sơn vâng lịnh Đức Bàn Cổ hạ san phá Xum La trận để giản hồi cho hai phái, chư Tiên về núi, Tần Thủy Hoàng hạ thành lâm trị, gồm thâu lục quốc dứt cuộc đao binh.

 

 

 CỘ BÔNG TÍCH THẦN NÔNG

Đức Thần Nông giáng sanh đời Thượng Cổ, Ngài có công tìm ra 5 giống lúa, dạy dân cày cấy gieo trồng đặng có phương nuôi sống, nếm đủ tánh chất trăm thứ cỏ cây, lập ra bổn thảo tánh dược trị bịnh cho người gọi rằng phương thuốc cứu thế.

Vì lòng yêu ái nhơn sanh Ngài mới mưu đồ diễn đại chí kế tạo nghề sanh hoạt và tìm phương trị bịnh để lưu truyền vạn đại. Sự sống của nhân loại có ảnh hưởng một phần rất lớn do Đức Thần Nông, đói có cơm ăn, đau có thuốc uống từ đời thượng cổ đến giờ nhơn sanh đã thọ ơn của Đức Ngài chẳng nhỏ vậy.

 

 

 CỘ BÔNG CÁ TRƯƠNG VI HỚP NGUYỆT, CHIM VỖ CÁNH HỨNG SƯƠNG

Cá Lý Ngư theo sách Ngư Câm có đặc điểm là lúc phong ba sóng dậy thì trầm xuống vực sâu, khi biển lặng sóng êm thì trừng lên mặt nước trương vi hớp nguyệt, báo điềm cho Điền Ngư biết để bủa lưới giăng câu.

Chim Phụng được tôn trọng là linh điểu được liệt vào hàng tứ phẩm trong Tứ Linh, cơn loạn lạc chim ẩn mình vào núi, lúc thái bình hiện ra vỗ cánh hứng sương múa gáy.

Như lời nhà Thương Trụ Vương thất chính thì Phụng gáy Tây Kỳ, ứng điềm cho Châu Võ Vương điếu dân phạt Trụ, thống nhất bát bá chư hầu về một mối.

Tóm Lại:

Đời thái bình thì muôn dân được an cư lạc nghiệp cộng hưởng hồng ân của Trời Đất, muôn chim đặng vỗ cánh hứng sương, cá đặng tự do hớp nguyệt.

 

 

 CỘ BÔNG BA CON VÕ HẦU, BỊT MẮT, BỊT TAI, BỊT MIỆNG

Tượng trưng người tu hành phải luyện Nhãn, Nhĩ và Khẩu tinh vi mới mong đắc Đạo.

Khỉ là một giống vật ai cũng biết, có tánh hoạt động lao nhao không ngồi yên một chỗ, mắt láo liên, mặt nhăn nháy, không ngớt ngồi một chỗ mà bịt mắt, che miệng, đậy tai, tỷ như người bước vào đường Đạo tu hành cần giữ cái tâm không cho xao động phóng túng, dục tắc lửa lòng, dứt sự luyến ái hồng trần mới mong đi đến đường Tiên nẻo Phật. Cái bí quyết trau dồi kềm chế  nên có câu:

-“Mục bất kiến phi lể chi sắc” nghĩa là mắt đừng xem sắc đẹp, danh vọng, tài lợi, vui sướng v.v…là dục lòng ham muốn làm cho mình u ám quên cả nghĩa nhân Đạo đức.

-“Nhĩ bất thính phi lễ chi thính” nghĩa là tai chẳng nghe những điều chẳng phải lễ, những tiếng thị phi.

-“Khẩu bất Đạo phi lễ chi ngôn” nghĩa là miệng chẳng nói những lời không phải lễ.

Ấy vậy phương châm tịnh dưỡng tinh thần sống cuộc đời yên tịnh vô biên, trao lòng trong sạch thanh cao, sửa tánh xấu ra tốt đẹp, chế ngự dục tình đoạn trừ ích kỹ, luật Đạo Trời là phương pháp tu hành đoạt Đạo.

 

 

CỘ BÔNG LONG MÃ PHỤNG HÀ ĐỒ

Đời Tam Hoàng vua Phục Hy tức vị vào ngươn Thánh Đức mới sơ diễn văn minh, võ trụ còn mịt mờ chưa phân phương hướng.

Thình lình có một trận phong ba giông tố nước lụt dâng lên quá cao, nhân dân hải hùng lo sợ, ngoài biển nổi lên một con quái vật hình giống ngựa, đầu có sừng, đứng khơi trên mặt nước, lưng mang Bát Quái Đồ Thơ xóc ngang cây bửu kiếm. Triều Đình báo cáo vua Phục Hy ngự đến xem biết là Long Mã con thú linh, Ngài mới phán rằng: “Nếu phải nhà ngươi đem vật báu ấy dâng cho ta thì đến gần đây”. Long Mã gật đầu rồi từ từ vô bờ quì trước mặt nhà vua, vua đỡ báu vật và cây Bửu Kiếm tức thì Long Mã ra khơi lặng mất, nước sụt xuống như thường không còn ngập lụt nữa.

Nhờ Bát Quái Đồ Thơ đó vua Phục Hy khảo cứu lần biết những huyền bí thời tiết trong vũ trụ , phân ra những phương hướng giúp cho muôn dân trong nước được hưởng thái bình thịnh trị.

 

CỘ BÔNG ĐƯỜNG TAM TẠNG THỈNH KINH

Đời Nhà Đường vua Thế Dân thất nhựt du âm phủ đến thành Uổng Tử bị các chơn hồn thác oan vì cuộc tranh hùng của Thập Bát Phân Vương níu kéo đòi mạng.

Khi hồi dương thế, Ngài mới phái Đường Ngự Đệ Trần Huyền Trang Tam Tạng qua Tây Phương bái Phật thỉnh kinh về nước cầu siêu cho các đẳng vong hồn được siêu thăng tịnh độ. Đường Tam Tạng cùng ba đệ tử là Tề Thiên, Bát Giái, Sa Tăng, chịu biết bao nhiêu triêu cay ngậm đắng, ăn tuyết nằm sương trên đường thiên sơn vạn hải, trót 14 năm bền chí kiên tâm, vượt qua muôn ngàn trở lực khó khăn khổ hạnh mới đi đến Tây Phương thỉnh được 3 tạng kinh: Luận Thiên, Luận Địa và Luận Nhơn lưu truyền cho nhơn gian cộng hưởng đến ngày nay.

Tóm lại xưa sao nay vậy, luật Trời có một vào Đạo tu hành thì phải nhẫn nại, trì chí, kiên gan, cam chịu những điều khổ hạnh khảo đảo để lướt xua những thử thách khó khăn nguy hiểm mới đoạt được lý của Đạo Trời. Chúng ta nên lấy đó mà làm gương hành Đạo khỏi uổng một kiếp sanh may duyên gặp Tam Kỳ Phổ Độ như Đường Tam Tạng 81 nạn mới được thành công.

 

 

 CỘ BÔNG TRIỆU KHUÔN DẪN ĐÁNH CỜ VỚI TRẦN ĐOÀN LÃO TỔ

Xưa lúc triệu Khuôn Dẫn chưa gặp thời, nhàn du trên núi Hoa Sơn gặp Trần Đoàn gây cuộc đánh cờ.

Trần Đoàn rõ thời cơ biết Triệu Khuôn Dẫn có mạng Đế Vương sau sẽ lập nghiệp Tống Trào làm chúa thiên hạ, mới lập kế đánh cờ ăn tiền để chiếm núi Hoa Sơn.

Triệu Khuôn Dẫn thua luôn ba bàn không tiền trả, Trần Đoàn mới buộc làm tờ thế núi. Triệu Khuôn Dẩn xét rằng: Núi đó không phải núi của mình nên Triệu Khuôn Dẫn không ngần ngại hạ tờ cho Trần Đoàn làm chủ. Đến khi đắc thời lên ngôi, Cửu Ngũ Tổng Thái Tổ không được nhìn núi đó của Quốc Gia nên có thơ rằng:

Hi Di được rõ thời cơ,

Thắng luôn họ Triệu viết tờ ký tên.

Trần Đoàn cất giữ nào quên,

Để sau Khuôn Dẫn được lên ngai vàng.

Hoa Sơn bị cố muôn năm,

Vô phương đòi lại giấy nằm còn trơ.

Khuyên đừng vui thú cuộc cờ,

Siêng năng Đạo đức thì giờ vàng thoi.

Ấy vậy, chúng ta là người Đạo đức chớ nên vui chơi cờ bạc lãng phí ngày giờ mà quên đường Đạo đức.

 

 

CỘ BÔNG TRƯƠNG LƯƠNG THỔI TIÊU PHÁ DINH SỞ

Ống Tiêu là cổ nhạc của vua Huỳnh Đế sáng tạo bằng một ống trúc, Thuấn Đế nhái theo canh cải tiếng nghe véo vắt thanh tao thảnh thót thông cảm lòng người. Tục truyền hồi thời Thuần Đế khi nghe thổi ống Tiêu thì chim Phụng Hoàng đến chầu, chim Khổng Tước đến múa.

Trương Lương nhờ một vị Tiên Trưởng truyền dạy nên đời Tây Hớn Ngũ Bá tranh cường, thất hùng tinh xuất: Triệu, Yên, Sở, Hàn, Tần, Ngụy tranh thiên hạ, mạng trời định Lưu Ban thống nhất sơn hà lập thành Đại Hớn.

Lúc Tây Sở Bá Vương Hạng Võ kéo bá vạng hùng binh cùng tám ngàn Tử Đệ đại chiến với Hán Bá Công Lưu Ban bị mưu của Hàn Tín vây khổn tại núi Cửu Ly Sơn và Minh Kê San, song tài hàng binh xuất quỉ nhập thần của Hàn Tín cũng không thắng nổi sức mạnh của Tây Sở Bá Vương, chỉ nhờ Trương Lương một đêm trung thu lên chót núi thổi Tiêu làm cho binh sĩ của Hạn Võ phải rúng động tâm thần, nhớ nhà mà ngã lòng ly tán, bỏ Hạn Võ thân cô mà chạy đến sông Ô Giang, cắt đầu giao cho Đình Trưởng.

Tóm lại mạnh như Hạng Võ còn phải chịu khuất phục với tâm lý tinh thần, tiếng Tiêu của Trương Lương nhường cho Hớn Bái Công được thiên hạ với danh nhơn nghĩa đúng theo lý Trời. Tinh thần thắng vật chất, còn nhu nhược thắng can trường.

 

 

 MẠNH TỬ KHIÊM-KIẾN LƯƠNG-HUỆ VƯƠNG

Thầy Mạnh Tử một nhà Đại Học Triết Gia, tên tục là Mạnh Kha, tự là Dư Sanh ở đất Châu, tỉnh Sơn Đông nước Tàu, ứng hiện thường du lịch nước Tề, Lương Tống đặng để đem Đạo Thánh Nhân ra cứu đời. Ngày kia, ông đi đến nước Lương, vua Lương Huệ Vương hỏi ông rằng: “Ông có điều chi làm lợi cho nước Lương không?”.

Ông gạt đi mà trả lời rằng: “Vương Hà tất viết, lợi viết hửu nhơn nghĩa nhi dĩ hỹ”.

Nghĩa là: Vua hà tất phải nói lợi, chỉ có nhân nghĩa mà thôi.

Nếu vua nói rằng: Làm thế nào lợi cho nước ta, kẻ trên người dưới đều tranh lợi, kẻ sĩ thứ dân nói làm thế nào lợi cho thân ta, mỗi đều thủ lợi thì là mất nước vậy.

Lấy nhơn mà nói thì Đạo làm tôi đem điều nhân nghĩa mà thờ vua, Đạo làm con đem lòng nhân mà thờ cha, Đạo làm em đem nhân nghĩa mà thờ anh, Vua, tôi, cha, con anh em đều vô lợi chỉ đem lòng nhân nghĩa mà tiếp đãi nhau như thế là thâu được thiên hạ, vậy hà tất phải nói lợi.

Tóm lại cái học thuyết của Mạnh Tử cốt lấy sự nhân  nghĩa  hòa bình mà bảo tồn lấy dân, ấy là chánh sách của đời vậy.

 

 

THÁNH THẤT CHƯNG THIÊN BÀN

 TỤNG KINH CẦU NGUYỆN


Cầu Thần Thánh ban ơn tế độ,

Cầu Phật Tiên phò hộ người ngay,

Cầu tu rạng tiếng Thientamism

Cầu cho bá tánh dồi mài chơn tâm.

 

Cầu Bồ Tát giáng lâm dạy Đạo,

Cầu từ bi chỉ bảo lời vàng,

Cầu mong hoàn võ thế gian,

Cầu xin tránh khỏi tai nàn Đạo binh.

 

Cầu cho vạn gia đình luân lý,

Cầu ngày sau Thánh ý ban lành,

………………………. (1)

Cầu cho Đại Đạo vang danh khắp cùng.

 

Cầu Đạo Hữu vĩnh sùng chánh giáo,

Cầu Nhơn Sanh  hườn đáo cựu ngôi,

Cầu xin Thiên Địa gặp hồi,

………………………. (1)

 

Cầu độ trả dặm dài vững bước,

Cầu phước Thầy tránh chước Quỉ vương,

Cầu mong khỏi phải lạc đường,

Cầu mong tới đặng khoa trường Long Hoa.

 

Cầu Đức Phật Thích Ca tế độ,

Cầu Quan Âm ủng hộ đêm thanh,

Cầu cho chơn lý bày rành,

Cầu cho trên dưới anh em thuận hòa.


(1)      Bảng chánh đánh máy bị thiếu

 

 

CỘ BÔNG ĐỨC LÝ NGƯNG VƯƠNG CHÚC THỌ CHO BÀ TÂY VƯƠNG MẪU

Đức Bà Tây Vương Mẫu giáng sanh tại đất Y Xuyên, họ Hầu tên chữ Thái Hư sau trở về ngôi cũ là cung Diêu Trì, Vườn Thượng Uyển tại hướng Tây thuộc núi Côn Lôn.

Nhơn đến ngày sanh nhựt của Đức Bà Tây Vương Mẫu, chư Thần Tiên đồng phò hộ dâng lễ chúc thọ và Hội Yến Bàn Đào.

Đức Lý Ngưng Vương vị Tiên thứ nhứt trong hàng Bát Tiên dâng lễ chúc thọ cho Đức Bà một bài thi xưng tụng Diêu Trì và Vườn Ngạn Uyển do nàng Chức Nữ thiêu tạc chữ gấm sau nầy:

Thiên thượng Thần Tiên Phũ,

Nhơn gian tế tướng gia.

Hữu điền giai Chưởng Ngọc,

Vô địa bất tài hoa.

 

 

CỘ BÔNG TÍCH TRƯƠNG LƯƠNG, HÀN TÍN, TIÊU HÀ

Ba vị công Thần đời Tây Hồng, phò Lưu Bang diệt hạng võ, lập nhà Đại Hớn.

Trương Lương: Thờ Lưu Bang diệt Hạng Võ để trả thù cho nước Hàn, làm quan đến chức Tam Công, không màng danh lợi, công thành, thân thối bỏ chức Lưu Hầu mà lên núi Chung Nam tìm Tiên học Đạo, sau đắc quả thành Tiên, nên đời sau làm bài thi khen Trương Lương rằng:

Khai sáng nhà Lưu đệ nhứt công,

Thù Hàn trả đặng phá Quang Đông.

Coi dèo biết ý Hớn Cao Tổ,

Mộ Đạo chiều lòng Huỳnh Thạch Công.

Thong thả trời mây dầu chỉ muốn,

Bình bồng non nước phỉ lòng trông.

Công danh vừa toại lui mình trước,

Trí thức như vầy có mấy ông.

Hàn Tín: Mưu cao trí dài dám chịu nhục lòn trôn giữa chợ mà chờ thời để lập thân danh. Tiếc rằng trí không bằng Trương Lương, công thành thân thối làm quan đến chức Tam Tề Vương mà để chết về tay đàn bà là Lữ Hậu, đời sau có làm thơ chê Hàn Tín rằng:

Nghĩ lúc đăng đàn tại Hớn Trung,

Tam Tần như gió vụt cây rung.

Lấy Yên phá Triệu ngàn cân sức,

Dẹp Sở an Tề rất lớn công.

Nên hội rồng bay dầm sức ngựa,

Chưa hay chim thác bỏ quên cung.

Chi bằng chước nhiệm lưu hầu sẵn,

Thông thả Trương sanh với xích tòng.

Tiêu Hà: Làm quan đến chức Thừa Tướng, xưa kia ba phen tiến cử Hàn Tín cho Hớn Bái Công, đến khi Hàn Tín bị Lữ Hậu giết mà Tiêu Hà không có một lời can gián trần thiết công khai quốc, thật là thiếu lòng trung hậu với bạn đồng trào, đời sau có thơ chê Tiêu Hà rằng:

Hàn Tín cơ mưu chất tợ nhà,

Tiêu Hà tiến cữ định san hà,

Ai dè công lớn mà ra oán,

Nên cũng Tiêu Hà thác cũng Hà.

 

 

CỘ BÔNG TÍCH ÔNG GIÀ VỚI BỐN NGƯỜI CON

Một gia đình kia ông cha sanh đặng bốn người con, ông đã tuổi quá lục tuần nên kêu bốn đứa con đến dạy rằng: Từ lâu cha đã để dành được một số vàng, bạc nên kêu trong bốn người con nói đứa nào bẻ gảy bó đũa nầy thì cha cho vàng bạc ấy.

Động lòng tham, đứa nào cũng muốn mình được nên dành nhau mà bẻ, trái lại người nào bẻ cũng không gảy cả. Sau đó ông cha cầm bó đũa lấy ra từ chiếc một biểu bẻ thì chiếc nào cũng gảy rất dể dàng.

Nhơn đó ông mới nói rằng: Trong gia đình nếu các con chẳng biết thương yêu hòa thuận đoàn kết cùng nhau, thì chẳng khác nào như bó đũa nầy, còn như bất hòa chia ra thì không khác gì như bó đũa lẻ. Ở đời cũng thế, đoàn kết thì sống, chia rẽ thì chết.

Hôm nay Đức Chí Tôn khai Đại Đạo cốt yếu là Ngài muốn làm thế nào cho tất cả con cái của Ngài tức là toàn nhơn loại biết thương yêu để gây tình cốt nhục, vừa thi hài vừa trí thức lẫn tinh thần thì mới mong cộng hưởng cảnh hòa bình đại đồng thế giới.


 MỤC BỔ KHUYẾT

Nếu có người thắc thắc hỏi: Tại sao thờ Thiên Nhãn là tượng trưng Thần lương tâm của nhân loại, còn Đền Thờ Phật Mẫu lại tạo hình tượng mà thờ, như vậy có chánh lý chăng?

Chúng tôi xin trả lời:

-Tiên Nho có nói: “Thiên tượng địa hình” nghĩa là Trời không có hình ảnh nên chỉ tượng trưng bằng Thiên Nhãn mà thôi. Còn Phật Mẫu phải tạo cốt tượng, phải có hình thể.

Hơn nữa đời Hớn Võ Đế được hân hạnh tiếp rước Tây Vương Mẫu tức Phật Mẫu đến thế gian dự lễ đáo tuế của Vua. Ngài cỡi Thanh Loan đi cùng Cửu Vị Tiên Nương và 4 vị hầu. Nhờ ông Đông Phương Sóc là đạo gia sắp đặt lễ ấy, nên bức tranh hiện thờ tại Đền Thờ Phật Mẫu được vẽ hồi đời Hán truyền tụng đến ngày nay.

Đức Hộ Pháp lấy hình đó mà đắp hình tượng y hệt như người Trung Hoa hằng thờ mấy ngàn năm nay.

Cốt ấy có giống Phật Mẫu không?

-Xin thưa, làm sao giống hệt được. Như hình Phật Thích Ca, người Ấn thì tượng tóc quăn, da đen, mặc y phục như quốc phục Ấn Độ. Còn người Trung Hoa thì tạo tượng trọc đầu, da vàng, lỗ tai dài, mặc quốc phục của Tàu.

Chúa Jesus cũng tượng hình  chưa chắc xứ nầy giống xứ khác.

 

·        * * *

Cũng có người cho bà Maya, mẹ của Đức Sĩ Đạt Ta là Phật Mẫu, lại có kẻ cho Bà Thánh Maria, mẹ của Jesus Christ là Phật Mẫu có đúng không?

Chúng tôi xin đáp:

-Bà Maya cũng là một chơn linh cao trọng mới sản xuất từ lòng mình một vị Phật. Bà Maria ắt là một chơn linh cao trọng mới sanh đặng một vị Chúa Cứu Thế. Nhưng hai vị ấy cũng mang xác tục phàm thể ắt phải được Phật Mẫu tạo hóa tức phải là con của Phật Mẫu, Chơn Thần của hai vị phải được Phật Mẫu ban mới có, nên có câu:

Chưa ai vào đến cõi trần nầy,

“Chẳng thọ lấy chơn thần tay Thiếp”.

***

Phật Mẫu chỉ nhận nhìn con cái của Ngài chớ không phân đẳng cấp, trái lại Bà không ưa đứa khôn hiếp kẻ dại, người giàu hiếp đứa nghèo, kẻ quyền thế hiếp người cô lẻ. Cho nên trong Đạo Thiên Tâm không có vấn đề giai cấp đấu tranh. Nếu kẻ có trí thì phải dạy lại cái hay đẹp của mình cho em mình được trí như mình. Kẻ có đức thì cũng phải làm gương cho em út mình tập tành trở nên được người có đức như mình. Chẳng những dìu dỗ nhau trong lúc ốm đau nghèo khó mà còn dẫn độ nhau thế nào cũng về cảnh Hằng Sống chung ngồi trong lòng của Bà Mẹ Thiêng Liêng cho vẹn câu:

“Anh trước em sau mà dắt nhau đến nơi Bồng Đảo”.

***

Chí Tôn ra lịnh cho Phật Mẫu tạo càn khôn thế giái thì Đức Phật Mẫu nhờ Đức Thái Thượng tượng trưng khí hóa và nhờ Hộ Pháp hành Pháp; nơi nê hoàn cung của chúng ta đều có Hộ Pháp hằng ngự để giữ chơn thần.

Hội Yến là cái phép của Hộ Pháp trình các chơn thần lên Phật Mẫu để Phật Mẫu ban lại cho sự sáng suốt khôn ngoan hầu đi một con đường tu tiến, nên ngoài Hiệp Thiên Đài ra không ai được làm chủ lễ. Hễ Hộ Pháp chủ lễ thì Hiệp Thiên Đài là tay chân của Ngài phải chủ lễ.

Hơn nữa quả Đào Tiên là chơn khí của Phật Mẫu tạo thành. Ngài ban cho ai tức người ấy được trường sanh bất tử. Cũng như ở thế gian người ta sạc bình accu vậy. Mỗi năm Ngài truyền chơn thần thiêng liêng cho chơn thần phàm tục được sống sung mãn hầu mở huệ khiếu cho chúng ta đạt được phép hằng sanh của tạo hóa, có thể thấu triệt huyền linh máy tạo mà trở về nguyên bổn.

Tử Quan

 

 LUẬN VỀ GIÀU NGHÈO

Người sống trên mặt thế không ai lại không muốn giàu sang. Đó là mục đích của mọi người đều nhắm đến để mà sống. Nhưng nghĩ cho cạn có mấy ai được diễm phúc ấy. Có kẻ thì cần cù làm ăn, cày sâu cuốc bẩm, hoặc buôn bán thật thà, hoặc nuôi tầm trồng dâu, thức khuya dậy sớm mà đục bào để có của. Nhưng cũng có kẻ dùng phương pháp bất chánh để áp chí kẻ nghèo phải nai lưng đóng góp mà nuôi mình, toa rập với kẻ quyền thế mà giành trâu cướp ruộng mưu thâm kế độc để thâu góp cho nhiều hầu tạo nghiệp, cất nhà cao cửa rộng, vợ đẹp con xinh, ăn sung mặc sướng, lên xe xuống ngựa. Lại có người trí thức dùng trí thông minh mà đoạt địa vị quan chức rồi hối mại quyền thế mà vơ vét, chỉ biết mình chớ không biết cái đau khổ của kẻ nghèo hèn không gặp thời.

Nên Đức Chúa Jesus đã nói trong Tân Ước trang 125 rằng: “Lạc đà chui qua lỗ kim còn dể hơn một người giàu vào nước Đức Chúa Trời”.

Đây Đức Chúa Jesus không luận cuộc sống ở mặt thế mà đề cập đến linh hồn của kẻ giàu. Vì muốn giàu mà phải ác đức, phải quỉ quyệt, mà ác đức quỉ quyệt thì làm sao về với Đức Chúa Trời cho đặng.

Hơn nữa kẻ đã xu hướng theo vật chất thì tối ngày chỉ tính toán việc vô tiền, có 1 muốn có 2, có 2 muốn có 4, mà túi tham thì bao giờ cho đầy, còn ngày giờ đâu mà nghĩ đến linh hồn. Linh hồn có tinh tấn thì phải lắm công phu tu chỉnh tánh tình, gieo nhân rải nghĩa, giúp khó trợ nghèo. Mà hễ làm nhơn, làm nghĩa, làm lành thì phải xuất tiền mà cho kẻ cô đơn lạc bước, bịnh tật ốm đau. Việc ấy rất phật ý kẻ muốn giàu, tức muốn thâu vào mà không muốn xuất ra.

Xưa Mạnh Thường Quân rất giàu có, trong nhà đãi 3.000 khách chia ra làm 3 hạng. Hạng ăn cơm thường với cá, hạng ăn cơm có thịt, hạng ăn thịt lại có xe đi.

Có một khách mới vào vài hôm tên là Phụng Quan than rằng: “Về đi thôi, ăn không có thịt”. Ông cho nha trảo đem lên hạng ăn thịt. Ít hôm vị khách ấy lại nói: “Về đi thôi, đi chẳng có xe”. Ông bèn sắp khách vào hạng thượng khách.

Lần lựa Mạnh Thường Quân sa súc, sai Phùng Quan về Ấp Tiết để đòi dùm tiền nợ. Phùng Quan ôm một sấp giấy nợ ra đi, đến Ấp Tiết kêu các chủ nợ trả lại họ hết giấy nợ và tuyên bố: “Mạnh Thường Quân giàu có nhưng thiếu nhơn nghĩa, nay ông sai tôi đi mua nhơn nghĩa nên tôi trả giấy nợ cho quí vị. Ai nấy đều mừng rỡ, sẵn của người nào làm ăn cũng phát đạt.

Một thời gian Mạnh Thường Quân bị kẻ phản phúc tố giác với vua là có ý muốn làm loạn, nuôi 3.000 khách để chống triều đình. Ông bị cắt chức và trở nên nghèo khó. Chừng đó khách đã đi hết, Phùng Quan nói với Thường Quân: “Bây giờ Thầy trò ta về Ấp Tiết ắc phục hưng lại được vì tôi đã gieo nhơn nghĩa cho Tướng Công. Phùng Quan nghe lời về Ấp Tiết, thiên hạ nghe nói đến thăm giúp đỡ. Thường Quân dựng lại sự nghiệp. Dân chúng còn lập kiến nghị tôn Thường Quân lãnh Đạo Ấp Tiết, Vua chuẩn phê. Thành ra chức quan cũng còn mà tiền của cũng không mất.

Ấy vậy, nếu Trời cho ta giàu, ta phải biết sử dụng đồng tiền cho đúng chỗ thì sự giàu ấy mới bền vững được.

Phùng Quan là kẻ tôi trung, biết cái sơ hở của chủ khi trên đái vinh quan mà bổ khuyết nên dựng lại quyền tước và của cải của chủ được tồn tại.

Ngày nay danh từ Mạnh Thường Quân không còn là tên riêng của các ông giàu mà nó đã là “thành ngữ” có nghĩa một người giàu lòng bác ái, sẵn sàng giúp đỡ.

Về mặt tâm linh, nếu kẻ giàu xuất tiền bố thí, ai đau cho thuốc, ai chết cho hòm, ai rách cho vải, ai cô đơn lỡ bước giúp cho họ an ủi tâm hồn thì cửa Thiêng Liêng họ ắc cũng đặng một phần thưởng chớ chẳng lẻ có tội.

 

 

LINH HỒN PHẢI CHỊU TRÁCH NHIỆM

CÁC HÀNH ĐỘNG CỦA THỂ XÁC

Thể xác như con ngựa, tinh thần trí não như dây cương hàm thiết và linh hồn như người cưỡi ngựa.

Người cưỡi ngựa phải gò cương buộc con ngựa phải đi theo ý muốn của mình. Nếu mình muốn qua phải mà nó muốn trì qua trái thì nhờ dây cương kéo nó qua trái, nếu nó cưỡng lại phải dùng roi mà đánh cho nó đau tức nó phải tuân theo. Ta muốn đi 5 dặm mà mới 3 dặm nó không chịu chạy thì cũng phải thúc lưng hò hét. Khi nó gặp cỏ xanh bên lề, lôi ta vào bụi rậm ta phải kéo cho nó ra kẻo gai đâm ta hay ong đánh ta hay rủi gặp giếng lạng thì nguy cho tánh mạng của nó và của ta. Khi nó thấy ngựa cái muốn lại làm quen mà ta buông lỏng cương thì nó quăng ta xuống đất có khi gảy tay gảy chân là khác.

Thể xác ta có nhiều khi tranh đấu với tinh thần rất mảnh liệt vì tánh nó là con vật tức xu hướng theo phàm. Linh hồn ta vốn thọ điển linh quang của Chí Tôn nên nó là Phật. Phàm Phật phản trắc nhau thì nhờ đệ nhị xác thân là trí não làm trung gian dung hòa. Tỷ như miệng ta muốn ăn những đồ ngon như thịt cá, muốn uống những món kích thích như cà phê, rượu mạnh, muốn hút chất ma túy thơm tho ngây ngất, thân ta thấy sắc lịch thì mê mẫn tâm thần, thấy tiền bạc vòng vàng thì muốn thêm cho nhiều, thích ăn sung mặc sướng, muốn ở nhà cao cửa rộng, muốn vợ đẹp con xinh, muốn quyền cao tước trọng. Bao nhiêu cái trêu nhử để thỏa mãn thú tánh thì linh hồn lại biết cái tai hại cái gàn dở mà không thuận theo.

Nếu không nhờ cái trí quyết đoán thắng nổi phàm tâm thì như trong kinh đã nói: “Mảnh hình hài biết hiểu lương tâm chúng ta phải sa ngã vào vòng vật dục mà thất Đạo”.

Vậy 3 thể phải tương liên với nhau nhờ người cầm cương quyết đoán làm chủ con ngựa của mình thì mục đích đến với mình chắc tới được. Chúng ta tu mà thắng được lục dục thất tình thì ắc đoạt ngôi Thần, Thánh, Tiên, Phật được.

Giáng cơ dạy về Luật Tam Thể, Ngài ví con người như cái xe ngựa, phải có cả đỡ bắt kế, con vật và người cầm cương. Ba cái phải hiệp một người ta mới gọi là cái xe.

Như cái xe ở trong một cái nhà nào đó chẳng hạng, khi cái xe bắt kế chạy đặng là một, còn khi về nhà là vật ở trong chuồng, cái xe và đỡ bắt kế để một chỗ nào nhứt định của chủ nhà. Còn người cầm cương thì phải ở chung trong nhà với chủ.

Khi con người đã chết đi rồi thì cũng như cái xe đã đem về nhà mà không chạy nữa. Nếu nói rằng con người không có tội là do nơi linh hồn chớ đâu phải do xác thân hay là đệ nhị xác thân. Như cái xe hư hỏng là do người cầm cương không cẩn thận chớ đâu phải cái xe và con vật bị bắt kế đó làm hư đâu?

Như vậy linh hồn phải chịu hoàn toàn trách nhiệm về các tội lỗi gây ra bởi thể xác hoặc tinh thần. Nó được đoạt vị hay bị sa đọa hay tái kiếp cũng do nơi nó định số phận của nó mà thôi.

 NỘI KHẢO NGOẠI KHẢO LÀ ĐỀ THI

HÀNH ĐỘNG LÀ VĂN UYỂN

Nội khảo là gì?

Ở cá nhân, chúng ta bị gia đình ràng buộc, nghèo khổ nhưng phải ly gia cắt ái, phế đời hành Đạo. Nếu bà nội trợ biết hy sinh cho chồng hành Đạo thì còn dễ chịu, trái lại bà buộc ông chồng phải gánh vác với bà mọi nổi sanh hoạt của gia đình thì thời giờ đâu mà đi lập công bồi đức.

Còn ngoại khảo là gì?

Ở cá nhân, dù vợ con thuận hòa nhưng cha mẹ già đau ốm cần phải dưỡng nuôi, con cần học mà tiền nong túng thiếu, hay lâm cảnh gảy gánh giữa đường phải phận gà trống nuôi con. Có khi vì tai nạn giao thông mà phải tật nguyền thành phế nhân không phương tìm cuộc sống.

Ở tập thể, các cơ quan đều có bền câu đoàn kết mà quyền đời lại nghi kỵ muốn ghìm sự bành trướng của nền chánh giáo để kéo quần chúng tín đồ về với chánh thể hiện hành. Bổn phận người tu không ai cấm, nhưng bổn phận công dân khi đổi chủ thì chế độ nào chúng ta cũng phải chiều theo thì mới mong đứng vững. Dòng suối chảy xuôi mà ta lội ngược thì sao cho tiện. Còn nếu buông xuôi theo thế tục thì nền chánh giáo hóa ra phàm, lần hồi chức sắc lợt điểm Thánh tâm tín đồ lơi mùi Đạo hạnh. Đời xu hướng vật thể còn Đạo xu hướng tâm linh, hai cái trì kéo nhau nên hóa ra xung đột.

Những cái mà chúng ta gặp phải tức là đề thi của cá nhân và tập thể để chúng ta phải giải đáp. Hành động của ta hạp với Đạo lý, nhân nghĩa là ta thi đậu, bằng trái lại sái tam cang, nghịch ngũ thường, bất trung bất chánh thì bài thi phải ít điểm phải bị loại tức thi rớt. Hành động của Hội Thánh đối phó thế nào với thời cuộc làm con cái Chí Tôn còn giữ được Đạo tâm, còn đủ phương thế tu hành dù mặt vật chất có thiệt thòi đôi chút mà tinh thần vẫn trụ vững nơi Chí Tôn Phật Mẫu cùng các Đấng Thiêng Liêng thì chúng ta đã nạp bài thi trên điểm trung bình tức đã đậu. Những hành động ấy hoặc cá nhân, hoặc tập thể, gọi là văn uyển. Vậy văn uyển là bài nạp cho giám khảo để chấm đậu rớt trong trường thi Long Hoa Đại Hội nầy.

Sự gắt gao của giám khảo càng tột độ thì giá trị cấp bằng càng cao quí. Chúng ta rớt là chúng ta bị trong vòng trói buộc của tà quyền, chúng ta đậu thì chúng ta mới xứng ngôi Thần, Thánh, Tiên, Phật, chính đó là ý Chí Tôn muốn phải có trường khảo thí để tuyển lựa người thật tâm Đạo đức, loại bỏ kẻ giả nhơn giả nghĩa, thiếu Đạo đức, lột thánh tâm.

Vậy cơ khảo đến là một việc mừng của cá nhân và mừng của tập thể chớ không có chi phải bị oan cả. Hành động cá nhân và hành động của tập thể sẽ định đoạt số phận của chúng ta đó vậy.

 


NHÂN LỄ VÍA ĐỨC QUAN ÂM BỒ TÁT 18-02-Kỷ Sửu (1949)

 

Hôm nay là ngày vía Đức Quan Âm Bồ Tát, Đức Quan Âm Bồ Tát là một đấng trong gia tộc sang trọng, oai quyền hơn hết.

Cái nguyên căn của Đức Quan Âm Bồ Tát do nơi pháp thân của Từ Hàng sản xuất. Quan Âm đến thời đó chỉ rõ cho chúng ta biết nguyên căn của mình. Quan Âm là cái thời gian của luật tạo càn khôn thế giới, ấy là một chơn linh rất cao trọng đó vậy, cũng như Đức Lý Thái Bạch là một chơn linh của ánh sáng, hào quang Thái Cực khi đã hiện ra tức nhiên bóng đèn, chúng ta ngó thấy khối lửa có ánh sáng kia tức nhiên là Đức Lý Giáo Tông.

Đức Quan Âm Bồ Tát đã cầm quyền Nhứt Trấn Oai Nghiêm chẳng cần luận thuyết. Cả thảy cũng điều biết cái quyền oai của Ngài vĩ đại như thế nầy, nhứt là phái nữ nên để ý bài giảng nầy cho lắm. Vả chăng thời gian, chúng ta sẽ nói thời gian mà thôi, chúng ta phải kiên nhẫn và từ hòa, nếu chúng ta hấp tấp hay lật đật thì chẳng hề khi nào chúng ta để thời gian đến trước mặt chúng ta đặng.

Chơn linh của người tức nhiên thể tánh của người chứng tỏ rằng, một đấng đã có 52 kiếp ở trong trái địa cầu 68 nầy và có đảm nhận trọng trách lớn lao hơn hết, là buổi mà trái địa cầu nầy nó chưa thoát xác của nó, là nó đầu kiếp lụng lại cho tới độ tứ chuyển ngày nay. Đức Quan Âm Bồ Tát đã cầm quyền điều khiển trong càn khôn vũ trụ nầy từ thử đến giờ đã 52 kiếp.

Ngài đã đầu thai thế gian nầy mấy kiếp, chỉ có tánh đức từ hòa và tinh thần Đạo pháp mà thôi, tỉ như Bạch Vân Hòa Thượng. Bạch Vân là ai? –Bạch Vân là Ngài. Ngày nay Ngài ở trong cửa Đạo, trong một cơ quan trọng yếu của Tam Kỳ Phổ Độ nầy.

Bạch Vân Hòa Thượng kiếp trước là Đức Quan Âm Bồ Tát đầu kiếp ở bên nước Tàu trước, rồi mới đầu kiếp ở bên xứ Việt Nam ta, kêu là Thanh Sơn Đạo Sĩ tức nhiên là Trạng Trình đó vậy. Trong 52 kiếp có một kiếp trọng hệ có thân tình với nòi giống Việt Nam ta hơn hết. Chúng ta có hạnh phúc lắm mới được Ngài đầu kiếp ở trong nước tới hai lần.

 Lần thứ nhứt đầu kiếp làm người đàn bà tức nhiên Thị Kính. Chúng ta đã biết Quan Âm là ai rồi bởi vậy cho nên kỳ Tam Kỳ Phổ Độ nầy, Đức Chí Tôn đã chọn lựa một đấng cao trọng cho đến mặt địa cầu 68 nầy. Có lẽ chúng ta đều biết danh Ngài hết, nhứt là Ngài lựa chọn một đấng có thâm tình với nòi giống chúng ta hơn hết. Cái tánh đức từ hòa yêu ái của Ngài, chúng ta đừng kiếm Đức Quan Âm ở đâu xa hơn là Thị Kính. Kiếm cái đức Thị Kính thế nào thì tánh đức trạng thái của Quan Âm như thế ấy. Tánh đức của Ngài là từ hòa, nhịn nhục, hiền lương, ân tha, mọi điều oan khúc chịu nổi, thắng nổi thời gian là đức Quan Âm.

Đức Quan Âm chơn linh của Ngài là Thời Gian cho nên tánh đức của Ngài không bao giờ thối tâm ngã lòng hay bật rật, gấp rút, lật đật. Bà là người điềm tỉnh, bởi thế cho nên khi bà đầu kiếp bị người ta vu oan đủ mọi điều, nhưng tánh đức từ hòa nhẫn nại của bà vẫn chịu nổi đủ phương diện khổ não và oan khúc, chịu nổi thế tình ấy là một vị trạng sư đắc lực và oai quyền nơi cảnh Thiêng Liêng Hằng Sống, bảo vệ nữ phái vậy. Chúng ta lấy làm hạnh phúc lắm, Bần Đạo lấy làm mơ vọng và Bần Đạo nói quả quyết rằng rất hạnh phúc cho chơn linh kẻ nào được gia tộc của Ngài, gia tộc vinh hiển tối cao tối trọng trên cửa Thiêng Liêng Hằng Sống, dầu bên cửa thiên oai hay là bên Cực Lạc cũng thế.

Bần Đạo quả quyết rằng: Ngài là một Đấng Phật Mẫu yêu ái hơn hết, tôn trọng hơn hết.

 

Việc Xây Bàn, Phò Cơ, Chấp Bút thông công với cõi vô hình.

Tìm hiểu vấn đề nầy qua sách báo xưa cũ, chúng ta bắt gặp những sự việc đáng ghi nhận như sau đây:

1)-Ở Trung Hoa: từ đời Ngũ Đế, các bậc chơn tu đã biết phò cơ, chấp bút thông công với cõi vô hình.

2)-Ở Việt Nam: Từ 1284 vua Trần Nhân Tông đã nhờ các bậc chơn tu phò cơ, chấp bút thỉnh giáo cõi vô hình về việc trị nước, nên mới được thịnh trị.

Năm 1542 ông Phùng Khắc Khoan (tức Trạng Bùng) nhờ phò cơ, chấp bút, thông công với cõi vô hình, nên đã trở thành nhà tiên tri nổi danh.

3)-Ở Hoa Kỳ: Năm 1848 tại tiểu bang New York, nơi nhà của Weckman đêm đêm xảy ra hiện tượng có tiếng gõ cửa, nhưng ra xem thì chẳng thấy ai.

Một hôm cô bé Mess-Kate vỗ tay chơi bỗng nghe tiếng gõ cửa đáp lại, động tính hiếu kỳ, cô vỗ tay ba tiếng, thì có đúng ba tiếng gõ cửa đáp lại.

Mẹ cô Mess Kate bảo:

-Gõ mười tiếng xem.

Có đủ mười tiếng gõ cửa đáp lại.

Bà kinh ngạc bảo tiếp:

-Nếu linh hiển hãy gõ đúng tuổi của bé Mess Kate.

Có tiếng gõ cửa đúng với số tuổi của bé  Mess Kate đáp lại.

Hiện tượng nầy được loan truyền ra, giới tu sĩ, giới trí thức, giới bình dân tấp nập đến thử để tìm hiểu. Kết quả họ ngạc nhiên lẫn kinh sợ chớ không giải thích được hiện tượng nầy.

Hội đồng thành phố Rochester thành lập hội đồng điều tra hiện tượng kỳ bí nầy, sau mấy năm điều tra, nghiên cứu, ba lần họp, có đến hàng trăm diễn giả thuyết trình, tranh luận sôi nổi, nhưng không đưa đến một kết luận nào. Kinh sợ trước những hiện tượng huyền bí mà họ đã chứng kiến, họ hồ đồ cho rằng gia đình của bé Mess Kate là phù thủy, là hiện thân của ma quái, kết quả: cha mẹ của bé Mess Kate bị đập chết bằng gậy, chị em bé Mess Kate bị xé xác chết thê thảm.

Sau khi gia đình bé Mess Kate bị thảm sát, hiện tượng  “gõ cửa” lại xảy ra nhiều nơi ở Hoa Kỳ.

Ông Loars Post đề nghị với cõi vô hình căn cứ vào thứ tự của các chữ vần trong bảng mẫu tự mà gõ (gõ một tiếng là chữ A, gõ hai tiếng là chữ B, gõ ba tiếng là chữ C v.v…rồi ông ráp lại thành chữ thành câu.

Thế là ông đã tìm được phương pháp thông công với cõi vô hình.

Nhờ phương pháp nầy, phong trào tìm hiều cõi vô hình lan rộng khắp Hoa Kỳ.

Luật sư J.Edmods, Giáo Sư E.Mapes (Hàn Lâm Viện Hoa Kỳ), Giáo Sư Robert Hare (Đại Học Pensylvania) sau nhiều năm nghiên cứu việc thông công với cõi vô hình, đã nhiều lần thuyết trình và viết nhiều sách trình bày kết quả cuộc nghiên cứu, xác nhận có cõi vô hình, và loài người thông công được với cõi vô hình.

4)-Ở Pháp: năm 1853, tại Jersey văn hào Victor Hugo và bạn hữu tổ chức xây bàn chơi để đỡ buồn.

Đêm 11 tháng 9 năm 1853 việc xây bàn được tổ chức, có mặt: Ông Bà văn hào Victor Hugo, cậu Charle Hugo, cậu Francois Hugo, cô Madelène Hugo, Đại Tá Le Flo, Bà De Girardin, Ông De Tre1veneue, Ông Auguste Vacqueria đêm ấy vong linh Bà Charvic Vacquerie (Con gái của văn hào Victor Hugo) giáng bàn thăm hỏi cha mẹ và tiết lộ nhiều điều huyền bí ở cõi vô hình.

Đêm 12 tháng 9 năm 1853, tiếp tục việc “Xây Bàn” có vong linh xưng là “Bóng Hư Linh” giáng bàn bảo văn hào Victor Hugo hãy đặt trọn đức tin vào Thượng Đế.

Tiếp tục việc xây bàn, nhóm của văn hào Victor Hugo đã thông công được với:

-Các vì giáo chủ Socrate, Luther, Mohamet, Jesus Christ, Moise.

-Các danh nhân: André Che1nier, Shakespeare, Moliere, Chateaubriand, Dante, Racine, Lion d’Androclès.

-Các vong linh ẩn danh: Sứ giả Thượng giới, người trong cõi mộng, bóng hư linh, bóng dưới mồ, Thần chết v.v…

Đêm 11 tháng 10 năm 1853. Nhận thấy những điều tiết lộ, những điều khuyên bảo , những giáo lý, những triết lý nhận được từ cõi vô hình việc Xây Bàn rất có ích lợi cho loài người, nên văn hào Victor Hugo hỏi vong linh đang giáng bàn:

-Những lời vàng tiếng ngọc mà chúng tôi được hân hạnh đón nhận từ mấy lâu nay, thật đáng xem là một bảng chơn truyền vô giá, chúng tôi có nên in thành sách để phổ biến cho mọi người cùng đọc hay chăng?

Vong linh ấy đáp:

-Không vì chưa đến ngày giờ.

Văn hào Victor Hugo hỏi tiếp:

-Đến bao giờ? Chúng tôi có còn sống đến ngày đó không?

Vong linh ấy đáp:

-Nếu không thấy nơi nầy, thì sẽ được thấy ở nơi khác. Chừng đến ngày giờ sẽ có lịnh. Hiện tại có thể phổ biến hạn chế cho những người có đức tin.

Nhóm của văn hào Victor Hugo càng ngày càng đông, âm thầm tiếp tục thông công với cõi vô hình.

 Những “Thánh Giáo” nhận được trong những cuộc “Xây Bàn” nầy, về sau được ông Gustave Simon in thành sách với tựa: “LES TABLES TOURNANTES DE JERSEY CHEZ VICTOR HUGO”

Quyển “Thánh Ngôn” nầy được tái bản mấy mươi lần, làm chấn động dư luận nước Pháp và thế giới.

Giáo Sư Charles Richets (Đại học Sorbonne Bale sau nhiều năm nghiên cứu việc xây bàn, phò cơ chấp bút đã xuất bản quyển: “TRAITÉ DE ME1TAPHYSIQUE”

Trình bày kết quả cuộc nghiên cứu của ông, khẳng định: Có vô hình, và loài người thông công được với cõi vô hình.

Năm 1914 Thánh Nữ Jean d’Arc giáng bút tại Algérie dạy rằng gần đến ngày thế gian có đại biến (tức trận đại chiến 1914-1918) sẽ có ngôi ba của Đức Chúa Trời truyền Thần cho con người mà cứu thế (chỉ Thần điển, cơ bút) “Thánh giáo” nầy được đăng liên tục trong các số báo tháng 3, tháng 5, tháng 7 năm 1914 của hai tạp chí  La Vie Nouvelle và La Revue Sprite ở Ba Lê.

5)-Ở Anh Quốc: Nhà Bác Học Villiam-Crookes sau gần 20 năm nghiên cứu việc thông công với cõi vô hình, ông đã viết sách trình bày kết quả cuộc nghiên cứu của ông, ông đã trịnh trọng kết luận bài thuyết trình trước Đại Hội Thần Linh Học Thế Giới tại Luân Đôn bằng câu:

“Tôi không nói là những điều tôi đã nghe, những việc tôi đã thấy, có lẻ có được, mà tôi dám nói chắc rằng có hiển nhiên như vậy”.

Lời khẳng định nầy làm chấn động giới tu sĩ  và giới trí thức khắp thế giới.

Qua những việc vừa trình bày đã cho thấy: Việc xây bàn, phò cơ, chấp bút, thông công với cõi vô hình do các đấng Thiêng Liêng hướng dẫn loài người từ xa xưa./.

Lê Ngọc Minh (Sưu Khảo)

 


NHÂN LỄ ĐỨC THÁI THƯỢNG ĐẠO TỔ, Đêm 15-2 Canh Dần (1950)

Hôm nay là ngày vía Đức Thái Thượng Đạo Tổ, ảnh hưởng triết lý Đạo giáo của Ngài đã để lại như thế nào?

Thời buổi hổn loạn, nhơn loại nơi mặt địa cầu  nầy, họ đang dong ruổi trên con đường quyền lợi. Với triết lý cao siêu của Đức Thái Thượng Đạo Tổ để lại, giờ phút nầy nhơn loại chịu ảnh hưởng của triết lý ấy như thế nào, xin luận thử cho con cái Đức Chí Tôn tìm hiểu hơn nữa.

Đức Thái Thượng Đạo Tổ lấy căn bản tinh thần vi chủ của Ngài: Trong mỗi kiếp sanh, con người có thể tấn triển mãi thôi, tấn triển về trí thức tinh thần. Thật ra nhơn loại đã hưởng được cao siêu của triết lý ấy, nhứt là các nhà học thức đã tìm tàng, đã đoạt huyền vi bí mật và năng lực của cơ thể  tạo đoan mà đào luyện kiếp sanh hôm nay, có lẽ chúng ta tưởng đã đi đến một đặc điểm khá cao. Thời kỳ nguyên tử  nhơn loại đã đoạt đặng do sự xu hướng đặc biệt huyền vi bí mật dòm lên kia quyền năng tạo đoan cũng khá nhiều.

Nhưng chỉ có một điều là đoạt được cái năng lực của cơ thể tạo đoan ấy, thay vì để phục vụ nhơn loại với Đạo đức nhơn nghĩa. Trái ngược, lộn lại, cả tài tình của họ đào luyện thu hoạch quyền lực, cơ tạo đoan của nhơn loại nắm trong tay là để làm cái lợi khí tiêu diệt nhơn loại.

Thật nguyên tử lực của các nhà học thức, bác sĩ, bác vật đã đoạt đặng. Đức Thái Thượng  Ngươn Thủy đã biết nó trước, duy chỉ có một điều chủ hướng của Ngài là bảo tồn sanh mạng con người chớ Ngài không tiêu diệt người như ngày nay.

Bí truyền của Ngài để nơi tinh thần luyện khí cốt yếu là đoạt đặng nguyên tử lực vào con người. Vậy, bí mật của việc luyện khí là do đó. Điều Ngài biết đã chính mình Ngài thâu hoạch được trước hai ngàn năm trăm năm. Ngài tưởng năng lực ấy để bảo vệ nguyên linh ta thắng được phản lực của hình thể ta, tinh thần ta vi chủ kiếp sống của ta.

Hại thay, các nhà truyền giáo tưởng đã đủ năng lực loài người bằng triết lý cao siêu ấy. Trái ngược lại, ta thấy những nhà hành Đạo truyền giáo họ thúc giục tương tranh, tương đấu nhau vào trường chiến trận mà thôi. Ta thấy lịch sử lưu lại triết lý tiên gia chỉ giục loạn chớ không trị bình đặng.

Ngày giờ nào, nhơn loại biết chỗ chơn thật của triết lý ấy, thấu triệt đặng phụng sự nhơn loại với cái trí quá khôn ngoan trong năng lực của Ngài mới thiệt hiện. Và ngày giờ ấy nhơn loại mới hưởng được đặc ân của Ngài đã để lại nơi mặt thế nầy.

 

 

 NGŨ CHI LUẬN

Ngũ Chi là: Nhơn Đạo, Thần Đạo, Thành Đạo, Tiên Đạo, Phật Đạo.

Cả toàn quả địa cầu nầy hễ làm người thì là có nhơn Đạo nơi mình rồi, mà mình nông nả làm ra người hữu dụng cho đời tức nhiên mình đã hơn người, ấy là thăng lên Thần Đạo đó vậy. Hễ hữu dụng cho đời, tức là mình hơn đời gọi là quán thế, tức nhiên mình làm Thánh Đạo đó vậy. Mình hơn đời là nhờ cái khiếu thông minh nó hứng sự thông suốt của đời dạy mình cho nhiều rồi lại biến hóa ra thêm, trí hóa phù hợp với cơ huyền vi mầu nhiệm của Trời Đất. Nếu đoạt đặng cơ mầu nhiệm ấy mà làm của mình, rồi lại truyền bá ra cho cả nhơn sanh học hiểu cái biết của mình mà thực hành ra sự hữu ích cho đời, tức là mình làm Tiên Đạo đó vậy. Biết đời rồi biết mình, mình biết đặng tinh thần mình rồi, hễ nhờ nó mà nhơn phẩm mình đặng cao trọng bao nhiêu thì lại càng yêu thương lại nó bấy nhiêu,  nên buộc phải lo cho đặng thanh tịnh nghỉ ngơi đôi lúc mà đợi ngày thoát xác, tức là Phật Đạo đó vậy.

Với các nguyên nhân thì Ngũ Chi tỷ như một cái thang  năm nấc bắt cho mình leo lên một địa vị ngang bậc cùng Thầy, tức là Phật phẩm đó vậy. Chưa ai thấy một nhảy mà lên đến một tầng lầu năm thước bề cao, mà như ai để sẵn một cái thang năm nấc mình có thể lần lần mà leo lên đặng.

Thầy hiệp Ngũ Chi đặng làm một trường học năm lớp cho mình tu hành, chẳng khác một trường học phàm kia vậy, lần lần bước đến đặng đoạt thủ địa vị của mình, hễ ngồi đặng phẩm nào thì địa vị mình nơi ấy, chẳng ai còn tranh giành ngược ngạo không nhìn nhận cho đặng.

Mình là người tức nhiên có sẵn nhơn phẩm, mình mới luyện nhơn hồn theo gương của chư Thần mà chúng ta thờ phượng, thì tức nhiên cũng đoạt đặng đức tánh của chư Thần mà làm Thần vị đặng vậy, đặng Thần vị rồi thì xem gương của các Thánh mà tu luyện Thần hồn cho đặng Thánh đức tức nhiên cũng đoạt đặng Thánh vị. Rồi ta cũng tu luyện Thánh hồn theo đức tánh của Tiên thì ta sẽ đoạt đặng Tiên vị, khi biết mình đã vững nơi Tiên vị rồi thì mình cố đào luyện Tiên hồn theo gương chư Phật thì ta cũng gấm ghé vào Phật vị.

Thoảng như có kẻ hỏi Thần, Thánh, Tiên, Phật xa cách với người như Trời với Đất, khác nhau kẻ tục người thanh, thì thế nào kẻ phàm lại mong mỏi leo lên phẩm vị ấy cho xứng đáng?

Ta lại đáp như vầy: Dầu cho hạng hóa nhân đi nữa, thì là:

Những vật chất hồn có một điểm thảo mộc hồn trong đó như bông đá (éponge)  đó vậy.

Thảo mộc hồn thì cũng sẵn có một điểm thú cầm hồn trong đấy vậy, như cây mắc cỡ (sensitive).

Thú hồn thì cũng có nhơn hồn như loài chim két, cưỡng, nhồng, chó, ngựa, khỉ, cá ông đó vậy.

Nhơn hồn thì Thần hồn đã đành chẳng cần giải, Thần hồn thì có Thánh hồn, Thánh thì có Tiên hồn, Tiên thì có điển Phật.

Mỗi chơn hồn thấp thì tự nhiên sẵn có một điểm chơn hồn của địa vị cao hơn ngay.

Ấy vậy, nơi mình chúng ta có sẵn điển Thần, Thánh, Tiên, Phật, nếu ta biết làm cho chơn hồn tăng tiến lên hoài cho tới khi phẩm vị Tiên, Phật thì phải tập tu hành và lo lập công bồi quả cho đầy đủ.

Muốn tu ắt phải có Đạo, vì vậy Thầy mới đến lập Đạo. Nếu có kẻ hỏi: Đạo vốn vô vi mà lấy hữu hình lập thành thì thế nào đắc Đạo vô vi đặng?

Ta lại đáp rằng: Không hữu hình, vô vi cũng khó có, mà chẳng có vô vi thì hữu hình thế nào bền vững, tỉ như hồn và xác ta đây vậy. Không hồn thì xác phải tiêu diệt, mà có xác không hồn cũng không có cơ khí mà lập thành Đạo người vẹn vẻ. Hai đàng phải tương hợp nhau mới đặng hoàn toàn. Ấy vậy có vô vi tất phải có hữu hình, nhờ cái hữu hình ta mới biết cái vô vi đặng.

Chánh Pháp và Hội Thánh của Đạo là hữu hình mà hữu hình ấy nó lại phù hợp với luật Thiên điều và đối chiếu với Cửu Thiên Khai Hóa Luật Đạo ấy là Thiên Điều. Hội Thánh là chư Thần, Thánh, Tiên, Phật tại thế đó vậy.

 

 

TAM QUI-NGŨ GIỚI

THÍCH: Tam qui - Ngũ Giới

TIÊN: Tam Ngươn - Ngũ Hành

NHO: Tam Cang - Ngũ Thường

***

Tam Qui của Phật là: Qui y Phật, Qui y Pháp, Qui y Tăng

1.-Qui y Phật: là thường tồn ngươn thần, linh hồn chẳng khá vọng động lo tưởng.

2.-Qui y Pháp: là thường giữ cho ngươn khí chẳng cho hao táng.

3.-Qui y Tăng: là thường giữ  ngươn Tinh chẳng cho tẩu triệt hao mòn.

Tam Ngươn của Tiên là: Tinh, Khí, Thần (cũng như của Phật đã nói trên đó).

Ngũ Thường của Nho là: Nhơn, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín (cũng như Ngũ Giới của Phật, Ngũ Hành của Tiên).

NHƠN: là lòng nhơn chẳng sát hại loại vật sanh linh.

(Phật gọi là “Bất Sát Sanh” Tiên gọi là “Chẳng Hao Phế”) Kim

NGHĨA: là lòng háo nghĩa, không ham việc trộm cướp, chẳng muốn gian tham một mãi của người.

(Phật gọi là “Bất Du Đạo”; Tiên gọi là “Chẳng Hao Can”) Mộc

LỄ: là lễ phép, trật tự, phải biết điều liêm sỉ, không sắc dục dâm tình.

(Phật gọi là “Bất Tà Dâm”; Tiên gọi là “Chẳng Hao Thận”) Thủy

TRÍ: là trí thức khôn ngoan, độ lượng, không ham thịt, rượu.

(Phật gọi là “Bất Tửu Nhục”; Tiên gọi là “Chẳng Hao Tâm”) Hỏa

TÍN: là tánh chất, thật tánh, là không nói dối, giữ lòng chơn thật.

(Phật gọi là “Bất Vọng Ngữ”; Tiên gọi là “Chẳng Hao Tỳ”) Thổ


Ý kiến bạn đọc (0)