
Ngày
xưa ở một ngôi chùa lớn, có một vị sư nổi tiếng là
khùng. Thầy không bao giờ ở chùa, quanh năm mặc cái áo rách đi lang
thang la cà khắp các trà đình tửu điếm bạn với những kẻ côn đồ, xì ke,
ma túy. Những kẻ này sau khi giao thiệp với thầy, phần lớn đâm ra hiền
lương và trở thành những hiệp sĩ ưa giúp đời.
Chúng
tụ tập tại các bến xe, đỡ đần gánh nặng cho những người già yếu, sản
phụ trẻ con. Sau những giờ làm việc nghĩa, chúng hội họp ôn lại những
lời dạy bảo của vị sư khùng. Ðược biếu món gì ngon chúng để dành cúng
dường vị thầy yêu mến vì lâu lâu chúng mới chúng mới thấy được bóng thầy
ngất ngưỡng trở về đô thị một lần. Thầy đi đâu? Thì ra chỗ hóa duyên
của thầy là một làng đánh cá ở ven biển. Thầy thường ở trong làng đó,
thỉnh thoảng mới trở về chùa một vài ngày, vào các dịp giỗ lớn.
Chúng
tăng trong chùa rất bực bội về bề ngoài của thầy khùng, thật là mất hết
thể thống của một vị tăng. Nhất là khi họ thấy thầy không thường trai
như quy luật nhà chùa. Thầy không đòi ăn gì khác hơn đại chúng mỗi khi
về chùa, nhưng buổi sáng thầy về thì buổi chiều họ đã thấy "bổn đạo" của
thầy ở biển gánh tới chùa một gánh cá biển, tôm, cua, đủ thứ sơn hào
hải vị để cúng dường. Thầy quát mắng:
- Tiên sư tụi bay, ta ăn gì hết mà gánh tới nhiều dữ vậy? Lần sau có muốn đem cho thì chỉ cho tao một con cá là đủ.
Một
điều quái lạ, mặc dù thầy đối với họ có vẻ thô lỗ cộc cản, những người
đánh cá xem ra rất kính trọng thầy. Họ xoa tay cười nịnh:
- Dạ để thầy biếu bà con trong chùa... Chúng con nghĩ là chùa đông người.
- Ý, tụi bay ngu. Các thầy chùa không có hạp thứ này, hiểu chưa? Chỉ có tao. Thôi, về đi.
Họ
riu ríu kéo nhau ra về, hớn hở sau khi được cúng dường thầy vài con cá,
và được gặp thầy. Ðến giờ thọ trai, thầy ngồi vào bàn chư tăng, xách
theo con cá biển mới luộc. Tăng chúng không chịu nổi mùi tanh, vác chén
chạy, tránh ngồi gần thầy. Thầy cười hề hề điềm nhiên gắp cá luộc chấm
nước tương ăn qua bữa.
Chỉ
có vị phương trượng hình như rất hiểu và thương thầy, do đó tăng chúng
không dám bàn ra tán vào mặc dù thái độ nghênh ngang của thầy. Vì lâu
lắm thầy mới về chùa, nên phương trượng cùng ngồi chung bàn với các đệ
tử vào những dịp ấy. Ðó là một biểu lộ rõ rệt của lòng ưu ái nơi bậc
thầy khả kính. Có thầy, phương trượng vui hẳn lên. Hai thầy trò đàm đạo
rất tương đắc. Phương trượng dường như không mấy may quan tâm tới mùi
tanh nồng nặc của con cá thầy đang ăn, mặc dù chính ngài thì đang dùng
rau muống luộc.
Trong
bữa ăn ấy, thầy khùng lỡ đánh rắm kêu cái đùng. Thầy điềm nhiên bỏ đũa,
ra trước đại chúng lạy ba lạy sám hối. Lạy xong, trở về chỗ cũ tiếp tục
ăn. Vài người không nhịn cười được, vừa ăn vừa cười khúc khích. Thầy
quắc mắt, mắng:
- Tiên sư tụi bay, ta đã lạy sám hối, còn cười cái gì? Ngồi ăn trước mặt thầy không được cười giỡn.
Bẵng
đi một dạo khá lâu, thầy không trở về chùa. Một buổi chiều nọ, tăng
chúng thấy thầy thất thểu bước lên đồi, dẫn đến chùa, mặt mày nghiêm
trang khác hẳn mọi khi. Chúng ra chào thầy:
- Hôm nay sao sư huynh nghiêm trang thế?
- Ngày mai về giỗ tổ, ta về bái biệt thầy đây.
- Sư huynh đi đâu?
- Về chầu tổ.
Ðại
chúng cười rộ, không tin lời thầy. Nhưng đến giờ ngọ hôm sau, tắm rửa
xong thầy vào nhà lạy phương trượng ba lạy từ biệt và bảo đại chúng:
- Hãy lên chuông trống bát nhã đi. Tây phương tam thánh sắp đến rước ta rồi.
Ðại
chúng chưa tin hẳn, nhưng nhìn ra thì thấy cả làng đánh cá ùn ùn kéo
lên chùa tiễn đưa sư phụ của họ về Tây phương. Một mùi hương lạ xông
khắp, và trên hư không, mọi người đều trông thấy ba luồng ánh sáng chói
lòa của Tây phương tam thánh (Di Ðà, Quan Âm, Thế Chí) đến rước người
con yêu dấu của các Ngài khi vị này đã mãn duyên hóa độ.
Ba
hồi chuông trống vang rền, trong khi sư khùng điềm nhiên tọa tịch trong
tư thế kiết già. Ðại chúng rơi lụy sặp lạy sám hối trước con người mà
họ thường báng bổ vì không thể hiểu thấu hành tung của Ngài. Sau khi
ngài thị tịch, đại chúng hỏi phương trượng:
-
Bạch thầy, thì ra sư huynh chúng con tu mật hạnh khó nghĩ bàn. Nhưng
tại sao người phải làm như vậy, sao không sống bình thường như những vị
khác?
-
Ðể hóa độ những dân dao búa, đệ tử ta phải là như vậy. Nhờ ông ấy mà cả
làng đánh cá mới quy y theo Phật, đa số bỏ hẳn nghề ác. Cho nên xét
người, các ông chớ nên chỉ xét bề ngoài. Ðức Phật đã dạy: "Nếu thấy
tướng mà không chấp tướng mới thấy được Phật", các ông phải nhớ lấy điều
ấy.
(Theo lời kể của Hòa thượng Thiền Tâm)
LỜI BÀN:
Ðừng bắt chước. Tây Thi đau bụng nhăn mặt thì đẹp như tiên, nhưng không đau bụng và không phải Tây Thi mà nhăn mặt thì...