Nghiên cứu chuyên sâu

Hạnh Lắng Nghe, ĐẠI BI TÂM của Bồ tát Quán Thế Âm, ĐẠI BI NGUYỆN của Ni sư Trí Hải và nét đặc sắc của đạo Phật.

Đăng lúc: 21:15 PM 18/02/2019 0   1035

Cùng Chủ Đề

Tứ Đế và quan điểm của Bồ tát Long Thọ
Tứ Đế và quan điểm của Bồ tát Long Thọ Tượng...
Phật Giáo
Phật Giáo

Hạnh Lắng Nghe, ĐẠI BI TÂM của Bồ tát Quán Thế Âm, ĐẠI BI NGUYỆN của Ni sư Trí Hải và nét đặc sắc của đạo Phật.


Nên phân biệt giữa lắng nghe với lén nghe. Lắng nghe là chia sẻ, còn lén nghe là rình mò, chiếm đoạt, mưu toan. Nếu nhân loại chịu lắng nghe Bin Laden, chịu suy nghĩ giúp những dân tộc Hồi giáo, và người dân Hồi giáo cũng thực tập hạnh lắng nghe, thì có lẽ không có vụ 11/09...

Từ Bi của đạo Phật đặt căn bản trên vô ngã, nên Từ Bi cũng có nghĩa là không ai cho, chẳng ai nhận; vô nhân tướng, vô ngã tướng, vô chúng sanh tướng, vô thọ giả tướng; tựa như trái tim bơm máu cho phổi, phổi đưa oxy vào máu, máu chuyền oxy cho não bộ, não bộ đưa cảm giác tới toàn thân và ngược lại...cũng may các cơ quan chức năng trong cơ thể ta đối đãi hoàn toàn ''Ba La Mật'' với nhau như các vị Bồ Tát, nên chẳng ai giành giật, chẳng cơ quan nào có tư tâm chiếm dụng hết các dưỡng chất cho riêng mình, chẳng cơ quan nào cành nanh với cơ quan nào, mọi cơ quan đều thương yêu các tế bào bình đẳng như yêu thương chính mình, một chỗ đau là cả cơ thể đều đau, mình hết lòng vì mọi người, và mọi người hết lòng vì mình. Chỉ cần một trong những cơ quan trong cơ thể con người tích tụ các dưỡng chất nhiều hơn số lượng cần thiết, thì cơ quan ấy dần dần sẽ gây nghiệp bệnh, tựa như trong máu có nhiều chất béo hay đường, gan có nhiều mỡ v.v..

Hiểu được như vậy thì Quán Âm có nghĩa là quán sát, soi xét, lắng nghe, và hiện diện ngay lập tức nơi nào có buồn đau, có khổ nạn, mà ngay cả hai chữ từ bi cũng trở nên thừa thãi, vì có bao giờ mặt trời ban cho trái đất sự sống bởi vì nó từ bi đầy lòng thương xót với nhân loại?

Từ Bi khiến người và vũ trụ từ chỗ thu hẹp, ngượng ngập, nghi ngờ, đi đến chỗ thấu hiểu, thân cận, tin tưởng, từ đó, hai bên, ngoài và trong, không còn cánh cửa nào ngăn chận.

Con người Từ Bi và vũ trụ Vô Ngã tựa như hai nhánh sông hòa quyện trước khi cùng biến mất vào lòng đại dương Bất Nhị.

Từ Bi là giao lưu mà không hề gạt gẫm, giao cảm mà không có biên giới kẻ cho người nhận, mở toang ra cánh cửa ngăn cách, cánh cửa đó là Phổ Môn trong kinh Diệu Pháp Liên Hoa, nhà thiền gọi là Vô Môn Quan, nghĩa là khi năm uẩn che lấp, không thấy lối vào; nhưng khi năm uẩn được tháo gỡ thì cũng chả có cửa nào cần mở ra, ở đây, theo thuật ngữ của Phật giáo, là các căn viên thông, sự sự vô ngại.

Tại VN, đại bi tâm của Quán Âm Bồ Tát đã hòa quyện vào lòng dân tộc, nghiễm nhiên làm MẸ VIỆT NAM, được Phạm Duy nhắc đến trong Trường Ca Mẹ Việt Nam.

Cũng tại VN, nếu có người đưa được tâm ý của Quán Thế Âm Bồ Tát đi vào các tầng lớp xã hội, người đó không phải các hoà thượng, thượng tọa, mặc dù các ngài là bậc y chỉ sư, mà lại là một nhà thơ, nhà thơ đó tên là Phạm Thiên Thư, và kẻ mật ngộ được thâm ý tiếp hiện, đi vào đời của hạnh Quán Âm, chính là dòng nhạc Phạm Duy qua bài hát Quán Thế Âm mà ngay cả Khánh Ly, một con chiên ngoan đạo, cũng không ngần ngại hát.

Quan Thế Âm là người mẹ luôn khát khao tìm con, tìm đến mù lòa đôi mắt, tìm đến dại khờ, lang thang trên đồi hoa trắng, bên bờ sông lan tím...

...Thế rồi, một hôm Mẹ chết, hơi Mẹ trong trời chưa hết. Ôm cả trần gian đầy vơi, nhân loại đeo tang người Tim Mẹ thành ra trùng dương, máu Mẹ thành sông thành nước Ôi đời trầm luân, Mẹ thương, chiếu ánh sáng từ quang....

Quán Âm hiện thân thành sông thành nước, thành lau thành lách, thành biển khơi, thành mây trời, thành những thiên hà rất xa hay những hạt bụi rất gần, để rồi, chỉ đơn giản thành mẹ chung cho muôn loài.

...Bây giờ Mẹ đã thành mơ, hơi Mẹ hoá thành hơi gió Bốn mùa ngồi nghe mọi nơi, tiếng Mẹ ru bồi hồi. Xưa là Mẹ đi tìm con, tiếng Mẹ ru buồn khắp chốn Bây giờ hiện thân Mẹ chung, tiếng Mẹ hát ru dịu dàng …

Bài hát chỉ có cái tựa đề mang âm hưởng tôn giáo, ngoài ra, nội dung không hề nói đến hai chữ Quan Âm hay đá động gì đến đạo Phật, không nói những việc phi thường như vào lửa lửa tắt, vào núi đao núi đao thành giấy, mà chỉ đơn thuần hát về tình mẹ dành cho con, không ngằn mé, không biết có mình (mù lòa đôi mắt), bao la như đại dương, sông núi, để rồi cuối cùng mẹ chết, biến thành đất trời vũ trụ, chỉ vì thương con.

Nhưng tôi tin rằng, không có phép màu nào hay phép lạ nào huyền diệu và ngọt ngào hơn việc mẹ ôm con vào lòng. Chỉ cần mẹ ôm con vào lòng, rất nhẹ, và ru con ngủ trong vòng tay ấm áp để con ngửi được mùi thơm không gì thơm bằng mẹ, đó là phép lạ trên hết mọi phép lạ giữa đất trời bao la này – Vũ trụ, mẹ chính là vũ trụ, ôm con người vào lòng, chân tướng của Tỳ Lô Hoa Tạng Giới – Cảnh giới Trùng Trùng Duyên Khởi của Đức Phật Tỳ Lô Giá Na trong kinh Hoa Nghiêm, tựa như các chùm amas và grand amas của các thiên hà - xuất hiện một cách vô thanh vô ảnh, và thực tại này, phép lạ này, có thực, không phải những lời hứa suông, trống rỗng, chỉ sau khi chết mới có.

Năm 2001, khi mà cả thế giới đều sôi sục lên án Bin Laden về việc đã đánh sập tòa tháp đôi ở New York, biểu tượng của thị trường chứng khoán thế giới, thiền sư Nhất Hạnh đã chỉ một mình đưa ra ý kiến rằng phải lắng nghe ông Bin Laden. Phản ứng của cả thế giới gần như ai ai cũng xem ngài là đồng lõa của Bin Laden, họ thiếu điều muốn ăn tươi nuốt sống ngài, ngay cả Phật tử ở Mỹ cũng không ngoại lệ.

Nếu nhân loại chịu lắng nghe Bin Laden, chịu suy nghĩ giúp những dân tộc Hồi giáo, và người dân Hồi giáo cũng thực tập hạnh lắng nghe, thì có lẽ không có vụ 11/09 và con người sống ở vùng Trung Đông không phải kéo nhau hằng triệu bỏ nước ra đi, chết chóc không diễn ra hằng ngày, bom đạn không cày xới loang lỗ trái đất, IS không có lý do để ra đời, quân đội của các cường quốc không cần có mặt, hằng tỉ đô la thay vì cung ứng vào vũ khí chiến tranh, có thể xây dựng các vùng đất lành chim đậu tại chỗ, nuôi sống hằng triệu người dân nghèo đói và họ không cần phải lìa bỏ quê hương. Một ngạc nhiên cho tôi là, khi người Hồi giáo vượt biển Địa Trung Hải tìm bình an và tự do ở Âu châu, người cựu thuyền nhân VN chưa hề lên tiếng ủng hộ hay kêu gọi giúp đỡ, mà còn như khinh bỉ chỉ vì người Ả Rập khác biệt với chúng ta về chủng tộc, văn hóa và tôn giáo.

Đừng nghĩ rằng đây chỉ là lý thuyết, không tưởng.

Thực ra, hạnh lắng nghe, trong giới hạn tục đế, không khó tu, mà chỉ đơn giản là chẳng ai muốn thực hành nó.

Vĩ nhân hay những người thành đạt là những người biết lắng nghe.

Lắng nghe hay quán sát âm thanh, cũng mang ý nghĩa lắng tâm, dồn mọi chú ý hoặc tập trung sự quan sát vào một chủ đề, hợp nhất chủ khách thành vô biên giới, phi chủ khách. Người hướng vào bên trong cơ thể thường hành nghề y, khám ra những quy tắc cơ bản của bệnh lí như Karl Landsteiner (tìm ra các nhóm máu), Thomas Hunt Morgan (tìm ra sự di truyền nhiễm sắc thể), Selman Waksman (tìm ra streptomycine chống lao), Alexander Fleming (tìm ra Pénicilline). Người hướng ra bên ngoài thường tìm ra những quy luật và sự vận hành của vật lí vũ trụ, là căn bản cho các nhà khoa học như Archimède, Pythagore, Newton, Einstein, Bohr. Người biết lắng nghe cả trong lẫn ngoài thường là các triết gia như Lão Tử, Trang Tử, Parménide, Héraclide, Aristote, Platon, Héraclide du Pont. Người lắng nghe tính trầm bổng và tiết tấu của âm thanh là những nhạc sư như Bach, Brahms, Mozart, Beethoven, Chopin. Người biết lắng nghe hình ảnh hay màu sắc kể chuyện là những họa sư như Van Gogh, Gaugin, Picasso hoặc các văn sĩ thiên tài như Shakespear, Tolstoï, Hugo, Hesse, Kazantzakis. Người chịu lắng nghe các ý kiến bất đồng thường là các lãnh tụ chính trị như các nhà lập pháp dân chủ Hy Lạp đầu tiên: Solon, Clisthène, Ephialte.

Nói chung, hãy lắng nghe, hạnh lắng nghe sẽ không làm chúng ta thua lỗ, trái lại, nó sẽ làm thăng hoa đời sống. Hãy lắng nghe thật chân thành, mọi sự vật trong vũ trụ đều có những bí mật để tiết lộ với chúng ta. Chỉ cần lắng nghe bằng hết cả tâm hồn, các hạt bụi sẽ ca hát cho chúng ta những ca khúc bất ngờ.

Hạnh lắng nghe, tâm từ bi, trái tim rộng mở là những chủng tính sẵn có của mọi chúng sanh. Quán Thế Âm vốn là tự tính của toàn thể vũ trụ trong đó có con người.

Nên phân biệt giữa lắng nghe với lén nghe. Lắng nghe là chia sẻ, còn lén nghe là rình mò, chiếm đoạt, mưu toan.

Lắng nghe là gia tài và là bản chất của nhân loại chứ không phải của riêng Phật giáo. Nhưng lắng nghe đối với Đức Quán Thế Âm đã trở nên là thể nhập pháp giới, không còn chủ và khách của sự nghe, như được diễn tả qua kinh Lăng Nghiêm được tác giả Lê Sỹ Minh Tùng diễn dịch và đăng trên Thư Viện Hoa Sen như sau : Trước hết tôi sử dụng tánh nghe: Nghe động và nghe tĩnh, rồi tôi xóa đi ý niệm động tĩnh ấy, từ đó sức tịch tĩnh tăng dần, tôi dứt được “năng văn” và “sở văn”. Sức tịnh tĩnh không dừng ở đó bấy giờ tánh giác tôi lại hiển hiện ra. Tôi tiếp tục tư duy : Dù là giác tánh nhưng tánh “năng giác” “sở giác” hãy còn. Tôi bèn xóa đi ý niệm về giác bấy giờ tâm tánh tôi rỗng rang lặng lẽ như hư không. Tôi lại diệt đi cái giác tri “như hư không” ấy. Cuối cùng tôi diệt cả khái niệm “diệt”. Khi tôi diệt hết khái niệm vi tế về “diệt sanh, sanh diệt” bỗng dưng tôi nhận thấy toàn thể pháp giới trong mười phương chỉ còn là cảnh giới “bất nhị” tịch diệt hiện tiền. Tâm tánh của tôi viên mãn khắp giáp mười phương vượt hẳn tầm nhận thức thường tình của thế gian. Tôi được hai món thù thắng : Một là tâm tôi hợp với bản giác nhiệm mầu của mười phương Như Lai, đồng một từ tâm hướng hạ cứu độ chúng sinh. Hai là hợp với tâm của lục đạo chúng sinh trong mười phương, đồng một bi tâm hướng thượng cầu Vô thượng Bồ Đề.

Nguyên văn chữ Hán:
Sơ ư văn trung, nhập lưu vong sở. Sở nhập ký tịch, động tĩnh nhị tướng liễu nhiên bất sanh. Như thị tiệm tăng, văn sở văn tận. Tận văn bất trụ, giác sở giác không. Không giác cực viên, không sở không diệt. Sanh diệt ký diệt, tịch diệt hiện tiền. Hốt nhiên siêu việt thế xuất thế gian, thập phương viên minh, hoạch nhị thù thắng: Nhất giả, thượng hợp thập phương chư phật bổn diệu giác tâm, dữ phật Như Lai đồng nhất từ lực; Nhị giả, hạ hợp thập phương nhất thiết lục đạo chúng sinh, dữ chư chúng sinh đồng nhất bi ngưỡng.

初於聞中,入流亡所。所入既寂。動靜二相了然不生。如是漸增。聞所聞盡。盡聞不住。覺所覺空。空覺極圓。空所空滅。生滅既滅。寂滅現前。忽然超越世出世間。十方圓明。獲二殊勝。一者,上合十方諸佛本妙覺心,與佛如來同一慈力。二者,下合十方一切六道眾生,與諸眾生同一悲仰

Văn phong kinh này súc tích, hào hùng, và quá hay, nên tôi dẫn ra để cùng thưởng thức (dành cho người thâm hiểu Hán văn), chứ bài viết này không dám lạm bàn về các lãnh vực cực cao của đạo Phật, thuộc lãnh vực Giải Thoát môn. Với sự hiểu biết của một người tai trần mắt thịt, tôi chỉ cho phép bàn về những khía cạnh lợi lạc mang tính thế gian, rất minh nhiên trong đời sống dân sự, tức trong phạm vi Thế Tục môn.

Cái đặc sắc thứ nhất của giáo lý đạo Phật là, cùng một lời Phật nói, người thực hiện ở sơ cấp thì được lợi lạc theo sơ cấp, người thực hiện trung cấp thì được lợi lạc theo trung cấp, và ở cấp cao hơn cho đến cấp vượt khỏi nhân thiên cũng được lợi lạc vượt nhân thiên. Tôi đơn cử chỉ việc ăn chay thôi, người ăn chay khởi đầu bằng tâm nguyện cầu phước - mấy bà nhà quê ít học chỉ biết như thế -, khởi đầu đơn giản ấy đã vô tình dẫn đến thân và tâm đều dần dần nhẹ nhõm. Người ăn chay ít có trường hợp có mùi hôi từ ngưòi toát ra làm trở ngại một cách kín đáo những người chung quanh. Càng ăn chay lâu hơn, càng biết rằng chay không phải chỉ đơn thuần là không có máu thịt của chúng sanh, mà ngay cả cái tâm dục lạc muốn ăn ngon, ăn cho sướng, ăn cho no, cũng tự được kềm hãm lại.

Ăn chay mà chế ra đủ món, đủ kiểu, đầy dầu đầy mỡ, nào giả cầy, giả cá, nem công, chả phượng, thì chỉ được cái vỏ của sự ăn chay, vẫn sẽ đầy dẫy bệnh tật.

Phải hiểu rằng ăn chay chính là tiết dục, tam thường bất túc, thì thân tâm mới nhẹ nhàng. Khi ăn chay tới cấp cao hơn thì lập tức nghĩ đến người không có ăn, người nghèo khổ chết vì đói rét bệnh tật, và tự nhiên, hạnh lắng nghe xuất hiện nhờ phép ăn chay, và từ sự lắng nghe đó, cửa Phổ Môn mở ra, người đó tự thúc giục phải thực hành việc tế độ xã hội hay hiến mình cho tha nhân, cho môi trường sống, bao gồm chúng sinh và hồ ao sông nước, chứng được quả bất thối lúc nào có khi không hay không biết.

Cái đặc sắc thứ hai của giáo lý nhà Phật là sự thành tựu ở cộng đồng hay tập thể mà xa hơn là thể nhập pháp giới. Vì đạo Phật là đạo vô ngã, cái ngã nhỏ bé ích kỷ là nguồn gốc của sinh diệt khổ đau nên Đức Phật chủ trương từ bỏ cái ngã giới hạn để mở tung cánh cửa Phổ Môn mà thâm nhập pháp giới, cùng với cái ngã vô hạn gặp nhau như ánh sáng hòa vào ánh sáng. Trong kinh Phật, luôn luôn có sự sách tấn thượng cầu Bồ Đề, hạ hóa chúng sanh, tức là Tự Giác và Giác Tha. Nguời theo Phật hướng về hai mục đích này, và dĩ nhiên, chỉ sau khi hai mục đích đầu thành tựu, thì cái đích cuối cùng mới thành tựu, đó là Giác Hạnh Viên Mãn, và chỉ có Phật Thích Ca đạt được 3 điều này, trở thành bực Chánh Đẳng Chánh Giác. Mục đích chư Phật ra đời là khai thị chúng sanh ngộ nhập Phật tri kiến, chỉ bày cho muôn loài chỗ thấy biết chân thực về pháp giới vũ trụ, chính vì mục đích phục vụ cho đời mà đạo Phật có một pháp môn tu gọi là Bồ Tát đạo, được cho là gần nhất với Phật Thừa, vượt qua khỏi hàng nhị thừa Thanh Văn và Duyên Giác.

Tôi nhớ xem trên một youtube nào đó, được nghe ni sư Thích Nữ Trí Hải giảng, ngài tâm sự rằng ngài không muốn được sanh về Tây Phương Cực Lạc, vì trên Tây Phương chỉ toàn Bồ Tất và A La Hán, không có khổ đau, ngài muốn dấn thân lại trần thế, sẵn sàng chịu trầm luân để cứu khổ. Đây là một tâm nguyện cao cả, vượt ra khỏi tiểu ngã của bực Bồ Tát lấy Phổ Môn làm diệu hạnh cho con đường tu tập và chứng nhập pháp giới. Mục đích tối thượng của Tiểu thừa là thoát khỏi tam giới, mục đích tối hậu của Tịnh Độ Tông và Kitô giáo là đến được Thiên Đàng hay Tây Phương Cực Lạc (hoa khai kiến Phật ngộ Vô Sanh).

Còn mục đích tối hậu của Bồ Tát thừa là vĩnh viễn vì chúng sanh mà chấp nhận lăn mình vào trần lao, nguyện tái sinh để hóa độ, địa ngục vị không, thệ bất thành Phật. Phật giáo tiếp hiện (từ của thiền sư Nhất Hạnh) chủ trương xây dựng nơi đây là cõi hạnh phúc chứ không hứa hẹn một thiên đường xa xôi sau khi chết. Câu nói nổi tiếng nhất cho tư tưởng này là : hãy sống tỉnh thức, sao cho mỗi bước chân làm nở một đóa sen.

Do vậy, giáo lý đạo Phật cho ta biết một Tin Mừng trên hết tất cả mọi tin mừng, rằng, tất cả chúng sanh, từ bò, chó, dê, ngựa, heo, gà đến trời và người, đều có phật tính, cùng với Phật hoàn toàn bình đẳng không khác, khai mở ra chân trời tự do tuyệt đối, tự do không lệ thuộc vào thần linh, làm tôi tớ cho bất kỳ một khái niệm cứu rỗi mang tính vong thân đánh mất tự tính. Phật tánh trong con người khiến con người luôn hướng về vô ngã, và khởi điểm của vô ngã chính là mở toang cánh cửa để hướng về vũ trụ, tha nhân, hay pháp giới, cùng nhau sống tịnh độ ngay trên hành tinh nhỏ bé này.

Ý kiến bạn đọc (0)