Namo tassa Bhagavato Arahato Samma-Sambuddhassa
Con xin thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn,
Ngài là bậc Úng Cúng, Đấng Chánh Biến Tri
-oOo-
"Một Chúng Sanh duy nhất, một Con Người phi thường,
xuất hiện trong thế gian này, vì lợi ích cho phần đông, vì hạnh phúc của phần
đông, vì lòng bi mẫn, vì sự tốt đẹp, vì lợi ích và hạnh phúc của chư Thiên và
nhân loại." -- Tăng Nhứt A Hàm
Đản Sanh
Nhằm ngày trăng tròn tháng năm, năm 623 trước
D.L., trong vườn Lumbini (Lâm Tỳ Ni) tại Kapilavatthu (Ca Tỳ La Vệ) bên
ranh giới Ấn Độ của xứ Nepal ngày nay, có hạ sanh một hoàng tử mà về sau trở
thành vị giáo chủ vĩ đại nhất trên thế gian.
Cha hoàng tử là Đức Vua Suddhodana (Tịnh Phạn) thuộc quý tộc Sakya (Thích Ca) [7] và mẹ là Hoàng Hậu Maha Maya (Ma Da). Sau khi hạ sanh hoàng tử được bảy ngày thì hoàng hậu thăng hà. Em bà là Maha Pajapati Gotami, cũng cùng kết duyên với Vua Tịnh Phạn, thay thế bà để dưỡng dục hoàng tử và gởi con là Nanda cho một bà vú nuôi chăm sóc.
Khi tin lành hoàng tử chào đời được loan truyền trong dân
gian, tất cả thần dân trong vương quốc đều vui mừng không xiết kể.
Thuở ấy có một đạo sĩ tên Asita (A Tư Đà), cũng được gọi là Kaladevala đặc biệt hoan hỷ. Ông là một người thân tín của nhà vua nên xin được vào thăm hoàng tử. Đức Vua Tịnh Phạn lấy làm hân hoan, cho bồng hoàng tử ra đảnh lễ đạo sĩ. Nhưng, trước sự kinh ngạc của mọi người, hoàng tử bỗng nhiên quay về phía đạo sĩ và đặt hai chân lên đầu tóc của ông. Đang ngồi trên ghế, vị đạo sĩ vội vã chỗi dậy, chắp tay xá chào hoàng tử . Ông tiên tri rằng về sau hoàng tử sẽ trở nên bậc vĩ nhân cao quý nhất của nhân loại. Đức vua cũng làm theo đạo sĩ, xá chào hoàng tử.
Xong rồi đạo si thoạt tiên cười khan, cười rồi lại khóc.
Mọi người đều ngạc nhiên trước những cảm xúc vui buồn lẫn lộn của ông. Vị đạo
sĩ giải thích rằng ông cười vì lấy làm hoan hỷ được biết rằng về sau hoàng tử sẽ
đắc Quả Phật, và ông khóc vì biết rằng không bao lâu nữa ông sẽ chết và tái
sanh vào cảnh giới Vô Sắc (Arupa-loka). Do đó ông sẽ không được phước lành
thọ giáo với bậc trí tuệ cao minh, Chánh Đẳng Chánh Giác.
Lễ Quán Đảnh (đặt tên)
Khi hoàng tử được năm ngày, Đức Vua Tịnh Phạn đặt tên là
Siddhattha (Sĩ Đạt Ta) có nghĩa là người được toại nguyện. Gotama (Cồ Đàm) là họ
Ngài. Theo phong tục thời bấy giờ, vua cho thỉnh nhiều vị đạo sĩ Bà La Môn
học rộng tài cao vào triều nội để dự lễ đặt tên cho hoàng tử. Trong các đạo sĩ,
có tám vị đặc biệt lỗi lạc. Sau khi quan sát đặc tướng của hoàng tử, bảy vị đưa
lên hai ngón tay và giải thích rằng có hai lẽ. Một, là hoàng tử sẽ trở nên vị
hoàng đế vĩ đại nhất thế gian. Hai, là Ngài sẽ đắc Quả Phật. Nhưng vị đạo sĩ trẻ
tuổi và thông minh nhất trong tám vị, tên Kondanna (Kiều Trần Như), chỉ đưa
lên một ngón quả quyết rằng ngày kia hoàng tử sẽ hoàn toàn thoát tục và đắc Đạo
Quả Phật.
Lễ Hạ Điền
Một sự kiện lạ lùng đã xảy ra trong thời thơ ấu của Hoàng
Tử Siddhattha (Sĩ Đạt Ta). Sự kiện ấy là một kinh nghiệm tinh thần sẽ giúp
hoàng tử thật nhiều sau này, khi Ngài quyết tâm tìm chân lý. Sự kiện ấy cũng là
cái chìa khoá mở đường cho Ngài tiến đến Giác Ngộ.
Lúc bấy giờ, để khuyến khích nông dân, Vua Tịnh Phạn ra lệnh
tổ chức một cuộc lễ gọi là Hạ Điền. Đây quả thật là một cơ hội cho tất cả, giàu
như nghèo, sang như hèn, ăn mặc tốt đẹp để vui chơi hỷ hạ một bữa, trước khi bắt
tay vào công việc ruộng nương đồng áng. Sáng ngày, đức vua cùng quần thần, áo mặc
chỉnh tề, ra tận nơi hành lễ. Hoàng Tử Siddhattha (Sĩ Đạt Ta) cũng được cung
phi mỹ nữ đặt trong một cái kiệu, màn che sáo phủ, khiêng ra để dưới bóng mát một
cội trâm. Hôm ấy đức vua chủ tọa một buổi lễ. Thấy mọi người vui vẻ theo dõi cuộc
vui, các cung phi có phận sự trông nom hoàng tử cũng lén chạy đi xem. Trái hẳn
với cảnh nhộn nhịp tưng bừng của buổi lễ, tàn bóng mát mẻ dưới cội trâm và
khung cảnh êm đềm như mời mọc tĩnh lặng quán niệm. Hoàng tử tuổi tuy còn nhỏ nhưng
tâm trí đã thuần thục. Khác với những người chỉ biết tìm thích thú trong cuộc lễ,
hoàng tử nối tréo hai chân lại theo lối kiết già, trầm ngâm lặng lẽ, chăm chú
vào hơi thở-vào, thở-ra, gom tâm an trụ, định, và đắc Sơ Thiền.
Giữa lúc mọi người vui vẻ thưởng thức, các cung phi bỗng
sực nhớ lại hoàng tử, vội vã trở về với phận sự. Khi thấy hoàng tử ngồi trầm
ngâm hành thiền thì họ lấy làm ngạc nhiên, đến tâu lại tự sự cho vua. Đức Vua
Suddhodana (Tịnh Phạn) hối hả đến nơi, thấy Hoàng Tử Siddhattha vẫn ngồi tham
thiền. Đức vua đến trước mặt hoàng tử, xá chào con và nói: "Hỡi này con
yêu quý, đây là lần thứ nhì, phụ vương đảnh lễ con".
Giáo Dục
Mặc dầu kinh sách không chép rõ, Hoàng Tử Siddhattha (Sĩ
Đạt Ta) chắc chắn đã hấp thụ một nền giáo dục vững chắc vì Ngài là hoàng tử của
một quốc gia giàu mạnh. Ngài cũng thuộc dòng chiến sĩ nên chắc chắn phải lão
thông binh pháp và võ nghệ cao cường.
Kết Hôn
Khi lên mười sáu, theo phong tục thời bấy giờ, hoàng tử kết
duyên cùng Công Chúa Yasodhara (Da Du Đà la) [14], một người em cô cậu, cũng
cùng tuổi với Ngài. Trong mười ba năm sau ngày hôn lễ, Ngài sống hoàn toàn cuộc
đời vương giả, không hay biết chi đến nỗi thống khổ của nhân loại bên ngoài ngưỡng
cửa cung điện.
Về cuộc đời nhung lụa ấy, khi còn là hoàng tử, đã có lần
Ngài nói:
"Đời sống của ta thật là tế nhị, vô cùng tinh vi.
Trong hoàng cung, chỗ ta ở, phụ hoàng có đào ao, xây những đầm sen. Khi sen
xanh đua nhau khoe màu ở đây thì sen đỏ vươn mình phô sắc phía bên kia, và
trong đầm bên cạnh, sen trắng đua nhau tranh đẹp dưới ánh nắng ban mai. Trầm hương
của ta dùng đều là loại thượng hảo hạng từ xứ Kasi đưa về. Khăn và xiêm áo của
ta cũng may toàn bằng hàng lụa bậc nhất từ Kasi chở đến. Ngày cũng như đêm, mỗi khi ta bước chân ra khỏi cung điện
là có tàng lọng che sương đỡ nắng. Phụ hoàng cũng kiến tạo riêng cho ta ba tòa cung điện. Một,
để cho ta ở mùa lạnh, một, mùa nóng và một, mùa mưa. Trong suốt bốn tháng mưa
ta lưu ngụ tại một biệt điện có đầy đủ tiện nghi, giữa những cung tần phi nữ.
Cho đến hàng nô tỳ của phụ hoàng cũng được ăn sung mặc sướng chớ không phải như
ở các nhà khác, gia đình chỉ được ăn cơm xấu và thức ăn cũ.
Thời gian trôi qua, Thái Tử Siddhattha (Sĩ Đạt Ta) càng
trưởng thành, ánh sáng chân lý càng rọi rõ sự vật cho Ngài.
Bẩm tánh trầm tư mặc tưởng và lòng từ bi vô lượng vô biên
của Ngài không để yên cho Ngài một mình an hưởng những lạc thú tạm bợ của đời vương
giả. Riêng mình được yên vui hạnh phúc, nhưng Ngài hằng nghĩ đến thực chất của
đời sống và biết rằng nhân loại đang đau khổ bên ngoài cung điện, nên Ngài luôn
luôn thương xót. Sống trong nhung lụa mà Ngài nhận định được rằng đời là
đau khổ.
Xuất Gia
Thái Tử Siddhattha (Sĩ Đạt Ta) suy niệm như sau: "Chính ta phải chịu cảnh sanh, già, bệnh, chết, phiền não và ô nhiễm. Tại sao vẫn còn mải mê chạy theo tìm những điều mà bản chất cũng còn như vậy. Vì chịu sanh, lão, bệnh, tử, phiền não và ô nhiễm, ta đã nhận thức sự bất lợi của những điều ấy. Hay ta thử tìm cái chưa được thành đạt, trạng thái tối thượng và tuyệt đối châu toàn: Niết Bàn!" "Cuộc sống tại gia rất tù túng chật hẹp, là chỗ ẩn náu của bụi trần ô trược, nhưng đời của bậc xuất gia là cảnh trời mênh mông bát ngát! Người đã quen với nếp sống gia đình ắt thấy khó mà chịu đựng Đời Sống Đạo Hạnh Thiêng Liêng, với tất cả sự hoàn hảo và trong sạch của nó."
Một ngày vẻ vang kia, thái tử ra khỏi hoàng cung để nhìn xem thế gian bên ngoài và trực tiếp tiếp xúc với sự thật phũ phàng của đời sống. Trong phạm vi nhỏ hẹp của cung điện, Ngài chỉ thấy phần tươi đẹp, nhưng đám đông nhân loại thì biết bề đen tối, đáng ghê sợ của đời. Chính cặp mắt quan sát của thái tử đã nhận thấy một cụ già chân mỏi gối dùn, một người bệnh hoạn đau khổ, một thây ma hôi thúi và một đạo sĩ nghiêm trang khả kính. Ba cảnh già, bệnh và chết, hùng hồn xác nhận quan điểm của thái tử về đời sống đau khổ của nhân loại. Hình ảnh thong dong từ tốn của nhà tu sĩ thoáng cho Ngài hé thấy con đường giải thoát, con đường an vui hạnh phúc thật sự. bốn quang cảnh bất ngờ ấy càng thúc giục thái tử ghê tởm và sớm thoát ly thế tục.
Nhận định rõ
ràng rằng những thú vui vật chất mà phần đông tranh nhau tìm kiếm đều không thể
đem lại lợi ích, chỉ có sự xuất gia, sự từ bỏ tất cả mùi danh bã lợi của trần
gian này mới thật là chân giá trị, Thái Tử Siddhattha nhất định rời bỏ cung điện
đền đài để ra đi, tìm chân lý và An Dưỡng Trường Cửu.
Giữa lúc ấy
thì có tin đưa đến rằng Công Chúa Yasodhara (Da Du Đà La), vợ Ngài, vừa hạ sanh
hoàng nam. Đối với thế
gian, đó là một tin lành. Nhưng, trái hẳn với mọi dự đoán, Ngài không quá đỗi
vui mừng vì thấy đó là thêm trở ngại. Thế thường, khi sanh được người con đầuloq,
cha mẹ cảm nghe trong lòng chớm nở lần đầu tiên một tình thương mặn nồng sâu sắc,
một tình thương mới mẻ đậm đà, vô cùng trong sạch. Nỗi vui mừng của người làm
cha đầu tiên thật không sao tả được. Nhưng Thái Tử Siddhattha không phải là một
người cha thường, Ngài than: "Lại thêm một trở ngại, lại thêm một dây trói
buộc". Do đó, Đức Vua Suddhodana (Tịnh Phạn) đặt tên cháu nội là Rahula
(La Hầu La).
Đời vương giả
không còn thích hợp với vị Phật tương lai nữa. Đối với một tâm hồn trầm tư mặc
tưởng như Thái Tử Siddhattha (Sĩ Đạt Ta), cung điện nguy nga không còn là nơi
thích đáng. Cả đến người vợ trẻ đẹp và người con sơ sinh dễ mến cũng không làm
sờn ý chí quyết định từ bỏ thế gian. Ngài ra đi với nguyện vọng góp một phần vô
cùng quan trọng và hữu ích hơn là phận sự của một người chồng, người cha, hay
chí đến nhiệm vụ làm chúa tể các vì vua đi nữa. Cung vàngđiện ngọc không còn sức
quyến rũ. Ngài không tìm thấy thích thú trong đời sống vương giả. Giờ ra đi đã
điểm.
Ngài truyền lệnh
cho Channa (Xa Nặc), người đánh xe yêu chuộng, thắng yên ngựa Kanthaka (Kiền Trắc)
và thẳng đến điện của công chúa. Ngài khẽ hé cửa nhìn vợ và con đang yên giấc với
một tấm lòng từ ái nhưng bình thản, không chao động, không trìu mến. Tình
thương đối với vợ, con thật mặn nồng sâu sắc. Nhưng đối với nhân loại trầm luân
đau khổ, lòng trắc ẩn của Ngài lại càng thâm thậm vô ngần. Ra đi, Ngài không lo
sợ cho tương lai của công chúa và hoàng tử, vì biết chắc chắn rằng vợ và con sẽ
có đầy đủ tiện nghi và đảm bảo để sống an toàn và sung sướng. Ra đi, không phải
vì kém tình thương vợ, thương con, mà vì tình thương của Ngài mở rộng cho mọi
người, bao trùm tất cả nhân loại và chúng sanh.
Với một tâm hồn
thanh thoát, Thái Tử Siddhattha (Sĩ Đạt Ta) ra đi giữa đêm khuya, để lại sau
lưng tất cả đền đài cung điện, người cha yêu quý, vợ đẹp, con thơ, và cả một
tương lai huy hoàng rực rỡ. Ngài trốn ra khỏi thành và giục ngựa thẳng xông
trong đêm tối. Cùng đi với Ngài chỉ có Channa (Xa Nặc), người đánh xe trung
thành. Không tiền của, không cửa nhà, nay đây mai đó, Ngài bắt đầu lần bước
trên đường đi tìm Chân Lý và An Tĩnh. Thế là Ngài từ bỏ thế gian.
Đây không phải
là sự từ bỏ của một cụ già đã trải qua hầu hết cuộc đời của mình, hay của người
bần cùng nghèo đói không còn gì để bỏ lại phía sau, nhưng là sự khước từ của một
hoàng tử vinh quang giữa thời niên thiếu, trong cảnh ấm no, sung túc và thạnh
vượng. Một sự thoát ly chưa từng có trong lịch sử. Lúc ấy thái tử
Siddhattha (Sĩ Đạt Ta) được 29 tuổi. Đến sáng hôm
sau Ngài đi đã xa. Sau khi Ngài vượt qua sông Anoma, Ngài dừng bước trên bãi
cát, tự cạo râu tóc và trao xiêm y lại cho Channa (Xa Nặc) đem về. Rồi khoác
lên mình tấm y vàng, Hoàng tử Siddhattha (Sĩ Đạt Ta) tự nguyện sống đời tu sĩ
và sẵn sàng chấp nhận mọi thiếu thốn vật chất.
Từ một hoàng
tử giàu sang vinh hiển tột bậc, Ngài trở thành đạo sĩ nghèo nàn, không tiền của,
không cửa nhà, sống nhờ lòng từ thiện của bá tánh thập phương.
Ngài không ở
nơi nào thường trực. Một cây cao bóng mát, hoặc một hang đá vắng vẻ hoang vu
nào cũng có thể che mưa đỡ nắng cho Ngài. Chân không giày dép, đầu không mũ
nón, Ngài đi trong ánh nắng nóng bức và trong sương gió lạnh lùng. Tâ;t cả xiêm
y từ tốn chỉ là những mảnh vải vụn vằn ráp lại, vừa đủ để che thân. Tất cả tài
sản chỉ là một bình bát để trì bình khất thực. Vật thực và bộ y chỉ vừa đủ để sống.
Ngài tận dụng
thì giờ và năng lực trong việc khám phá chân lý.
MỤC LỤC
CHIẾN ĐẤU ĐỂ ĐẠT THÀNH ĐẠO QUẢ
CUNG THỈNH ĐỨC PHẬT TRUYỀN BÁ GIÁO PHÁP
BÀI PHÁP ĐẦU TIÊN: KINH CHUYỂN PHÁP LUÂN
BÀI PHÁP THỨ NHÌ: KINH VÔ NGÃ TƯỚNG