Cửa Phổ Môn hay sự lắng nghe đưa đến sự bình đẳng và chế độ dân chủ
Từ Phổ Môn đã nói lên hết khái niệm về dân chủ. Ý nghĩa nôm na của Phổ Môn là Cánh cửa ban vui cứu khổ rộng mở cho tất cả mọi loài. Từ điển Larousse Pháp giải thích hành động dân chủ hóa như sau : Démocratiser = Rendre quelque chose accessible à toutes les classes sociales, le mettre à la portée de tous : Démocratiser le transport aérien en abaissant les tarifs. introduce a democratic system or democratic principles to.
( Dân chủ hóa = Làm cho cái gì đó được sử dụng rộng rãi khắp các tầng lớp xã hội, khiến cho nó đến tay tất cả mọi người, như dân chủ hóa sự vận chuyển hàng không bằng cách hạ giá vé máy bay).
Câu nói trứ danh : Ta là phật đã thành, các người là phật sẽ thành là tuyên ngôn bình đẳng tuyệt đối mà Phật giáo cống hiến cho nhân loại.
Như vậy, đạo Phật có ý niệm về một nền dân chủ từ xa xưa và ngay cả còn universal (phổ quát) tiên tiến hơn các tư tưởng dân chủ trong thời hiện đại. Dân chủ chỉ có nghĩa là số đông quyết định, cho dù có là dân chủ đa nguyên, vẫn có những số còn lại trong chùm đa nguyên ấy không thỏa mãn, miễn cưỡng chấp nhận luật chơi của nó.
Chủ trương vô ngã cũng là cốt lõi của bình đẳng, vì khi vắng mặt cái tôi thì những cái thuộc về tôi đều tự nhiên biến mất, chủ và khách đều trở nên bình đẳng trong tư tưởng Phật giáo. Đã không có chủ khách đối đãi, thì có cái gì cần để phải thiết lập dân chủ hay đấu tranh giai cấp? Phổ môn là bản chất của giáo dục, trong khi dân chủ là khái niệm của chính trị. Giáo dục không tạo ra hỗn loạn xã hội, không gây đồ máu; còn chính trị, nếu muốn thực hiện, phải nhờ vào cách mạng, và trong lịch sử, chưa có cuộc cách mạng nào không đổ máu.
Như vậy thì Phổ Môn đã bao gồm và vượt xa dân chủ, vì trong mỗi một con người đều tự tính có sẵn sự dịu dàng lắng nghe, dù người đó thuộc thành phần văn hóa nào, chủng tộc nào, tín ngưỡng nào. Sự lắng nghe ấy đã nối một vòng tay lớn nhân loại lại với nhau. Sự lắng nghe và chia sẻ ấy không đòi hỏi đền trả, không mong cầu một chiếc vé mua chỗ hưởng thụ trên một thiên đường xa vời ở bên kia trái đất. Tôi có xem một phim về loài beo đốm, nó giết con khỉ mẹ ăn thịt một cách ung dung, nhưng đối với con khỉ con bé bỏng mồ côi mẹ, lại được chính nó ngoạm nhẹ kéo lên cây để tránh lũ linh cẩu ban đêm đứng chực dưới gốc, sẵn sàng chờ con khỉ con rơi xuống là chia nhau xé xác. Loài thú cũng có tự tính Phổ Môn, mặc dù mơ hồ như một lớp sương khuya.
Trước khi bàn về bản chất tự tính tập thể, cũng là phần quan trọng nhất của hạnh Phổ Môn, tôi xin mở một dấu ngoặc nhỏ ở đây để nói về việc cầu nguyện mà thực lòng tôi không bao giờ muốn nói, vì nó hoàn toàn mang tính cục bộ, cá nhân, đó là sự linh ứng được đồn đãi. Không ai nói về Bồ Tát Quan Âm mà lại không ít nhiều bàn về sự linh ứng đậm nét siêu hình. Tôi lại rất dị ứng về những chuyện siêu hình này, vì trong thâm tâm, tôi chả bao giờ tin, mặc dầu chính tôi từng trải nghiệm một lần khi còn rất bé.
Gia đình tôi thực sự theo đạo Phật từ khi có một vị sư đến nhà cầu an cho tôi trong một cơn bạo bệnh sốt li bì. Đang nằm im bất động không biết từ bao lâu, nghe tiếng chuông, tiếng mõ, tôi đã bật ngồi dậy, rồi đến ngay bát nhang, lấy một nắm chân nhang, trở về chiếc giường được kê ngay trước bàn Phật, ngồi xếp bằng, và chà đầu bó chân nhang lên hai lòng bàn chân, nhìn tế bào chết rơi như vảy khô xuống chiếu và mỉm cười thích thú. Mẹ tôi định la tôi thì vị sư đưa tay lên miệng suỵt nhỏ, ý ngài là cứ để tôi tha hồ. Và hình ảnh đầu tiên chiếc bàn Phật cùng nhang đèn hương hoa trong căn nhà tôn vách đất nghèo nàn của gia đình tôi là như vậy, hình ảnh ấy còn nguyên xi từ đó đến bây giờ. Nhưng câu chuyện sau đây mới là chuyện tôi muốn kể :
Khoảng lên 7, 8 tuổi, một hôm tôi xin phép mẹ dẫn đứa em trai nhỏ hơn tôi hai tuổi đi theo một nhóm bạn vào con suối trong bìa rừng để moi đất sét. Chúng bạn làm thủ công với đất sét đủ màu, cam, lục, xanh da trời, lam, đỏ, vàng, và đen mun. Nhìn trái đu đủ hoặc trái cam chúng bạn làm để được chấm điểm thủ công, tôi chết mê. Kịp khi lũ bạn rủ đi lấy đất sét có màu thiên nhiên ấy, tôi đã năn nỉ mẹ cho tôi đi theo. Con đường từ nhà tôi đến con suối phải đi hết đoạn cái quan trải nhựa hư hỏng loang lỗ, băng xuống dốc đồi thông theo lối mòn dẫn đến một con suối, nơi mà tôi thưòng theo mẹ đi tắm, còn mẹ thì giặt quần áo trên chiếc cầu sắt bắt ngang qua giòng chảy, từ con suối băng theo lối zigzag xuyên qua nhiều dãy ruộng mía do người dân tộc trồng thì tới sát vách núi nơi có đất sét đủ màu. Ở đây vừa sạch, vừa nên thơ như cảnh đào nguyên. Hai anh em tôi có thể được xem là kém ''lịch duyệt'' nhất trong đám trẻ thời bấy giờ. Cứ mãi mê tắm mát dưới giòng suối toàn bằng đất sét đầy màu sắc hiếm khi được thấy, thì chợt nghe sấm sét nổ đùng nhiều tiếng như bom ngay trên đỉnh đầu, mây giăng đen kịt, trời bỗng từ xế chiều chuyển ngay sang chạng vạng tối, nhìn lại chỉ còn có hai anh em, bọn trẻ đang cuốn quần áo chạy sắp mất hút khỏi rừng mía. Em tôi sợ quá khóc thét như chưa bao giờ nó hãi hùng đến thế.

Tôi cũng sắp sửa khóc òa như em, nhưng sứ mệnh làm anh bỗng bừng dậy, tôi vội xỏ nhanh chiếc quần sọt, bặm môi kéo áo phủ lên người em, một tay dắt em, tay kia ôm áo chạy theo hướng ra khỏi rừng mía. Lúc đó, khốn thay là mưa xối xuống như tạt, và gió thổi mãnh liệt từng cơn kèm theo sấm chớp liên hồi. Giữa rừng mía, bên kia con suối là đồi cao sừng sững và nghe đâu có cọp thỉnh thoảng về gầm hú, hai anh em tôi như hai con kiến nhỏ cuống quít chạy tứ phía mà không cách nào tìm được lối ra khỏi ruộng mía cao hơn người lớn đứng giơ tay. Em tôi há mồm khóc như ai đâm dao vào nó. Tôi sợ như chưa từng sợ từ lúc sinh ra đời. Và trong sự sợ hãi tột cùng ấy, tôi tự nhiên niệm Nam Mô Quan Thế Âm Bồ Tát không ngưng. Đó là do mẹ tôi thường làm như vậy mỗi khi bà có điều gì bất an, bà dạy tôi cũng phải biết niệm Phật Quan Âm, nhưng đây là lần đầu tiên tôi niệm tên bà ấy như một cái máy mà không đợi mẹ nhắc.

Niệm thì niệm chứ mắt vẫn đăm đăm nhìn về trước và tay vẫn nắm tay đứa em, vẫn ôm chặt chiếc áo sơ mi sờn rách chạy như điên như cuồng không định hướng. Trong cơn vô vọng và kinh hoàng ấy, cứ nghĩ là sẽ chết giữa rừng mía, trời lại tối sẩm thêm như càng muốn hăm dọa hơn với bóng ma bóng cọp, thì một cái chớp sáng rực bầu trời tóe lên như pháo bông, kèm theo một tiếng sấm ở đầu kia ruộng mía, tôi điếng hồn nhìn về phía tia chớp, một cánh tay vươn lên khỏi đọt mía vẫy vẫy gọi tên tôi, Ê ! T. ơi, ra đây này. Không cần biết ất giáp, và như con cheo nhỏ, tôi dắt em lao nhanh về phía ấy. Quả nhiên, chỉ chừng vài phút sau, tôi đến ngay chỗ mà tôi thấy bàn tay. Đây chính là bìa rừng mía, tôi gặp ngay con đường mòn dẫn về cây cầu sắt bắt ngang con suối, ở đây hoàn toàn quang đãng không còn gì che chắn tầm mắt, tôi nhìn về phía cuối đường mòn dẫn ngược lên con lộ cái quan ở phía đằng xa, chẳng có lấy bóng một người, các bạn tôi đã chạy không còn một đứa. Trong thâm tâm, tôi tuyệt nhiên chẳng nghĩ gì đến Phật Trời, chỉ cho rằng thằng bạn nào đó đã kêu tôi, sau khi kêu, nó bỏ chạy mất, thế thôi.

Bẵng đi một thời gian, cho đến khi đã vào đại học, nhân dịp đi chơi với một đám bạn, ngang qua một ruộng mía ở vùng phụ cận Nha Trang, tôi bỗng nhớ tới cái rừng mía của người dân tộc canh tác lúc còn bé, và tôi giật mình suy nghĩ : bây giờ tôi đã cao được gần 1,7 mét, tôi vẫn giơ tay không qua khỏi đọt mía một cách dễ dàng, thế thì thằng bạn nào có đủ chiều cao giơ cánh tay lên đến ngang nách qua khỏi đọt mía mà gọi tên tôi lúc còn bé?
Tôi kể câu chuyện này hôm nay, không cho rằng đó là phép lạ của Đức Quán Thế Âm, nhưng vẫn hoang mang không thể giải thích thế nào.
Cũng như hằng triệu người Á Đông khác, tôi luôn kính ngưỡng Mẹ Hiền Quan Âm, không ngày nào không quán và niệm tên ngài – quán 12 đại nguyện của ngài, niệm niệm cố gắng trong muôn một làm theo các công hạnh ấy, nhưng tôi không thích những câu chuyện mê tín như thấy Quan Âm hiện trên mây, trong mộng, làm cho hết bệnh ung thư, làm cho đẻ con trai hay con gái, làm cho trúng số độc đắc... Phật Quan Âm không phải là thần linh đầy ngã tính thích được khen tặng thờ lạy, ai gọi tên, ai cúng vái, ai lần chuỗi dua nịnh mới ra tay cứu giúp, còn không thì thôi. Đó là một quan niệm hết sức hạn hẹp, tuy nó không tác hại, nhưng nó chỉ mang tính cục bộ và may mắn cho từng cá nhân, tựa như thuốc Nam, có người uống hết, có người uống không hết, phước chủ may thầy. Tôi tin rằng, một người nhất tâm niệm danh hiệu Quán Thế Âm thì sự nhất tâm khiến cho tiểu ngã của vị ấy tung mở cánh cửa Phổ Môn, tiểu ngã vị ấy thoát ra ngay trong giây phút hiện tiền, Đức Bồ Tát Quán Thế Âm trong nội tại viên thông với Bồ Tát Quán Thế Âm trong pháp giới, tựa như ánh sáng bị nhốt tung mở hòa với ánh sáng bên ngoài, thế là sự sự vô ngại pháp giới xuất hiện, mọi việc được giải quyết. Vừa thấy việc được giải quyết, tâm vị ấy sinh ra thỏa mãn mừng rỡ, thế là nó trở lại trạng thái tâm phàm phu, vị ấy tự cứu mình, mà cứ tưởng có một vị Bồ Tát bên ngoài đến cứu.
Ngày nay, đạo Phật mang nhiều màu sắc khoa học và có nhiều giá trị phổ quát hơn. Khoa học đã như một dụng cụ khai quật những viên ngọc quý trong kho tàng Phật giáo và đưa chúng ra ánh sáng. Chính nhờ lăng kính khoa học mà tôi đã tìm thấy các giá trị dân chủ, bình đẳng, xóa bỏ giai cấp, xóa bỏ nô lệ, tuyên ngôn nhân quyền trong Phật giáo. Tôi từng viết về câu chuyện một góa phụ có đứa con chết, nghe đồn Sa Môn Gautama có nhiều phép lạ, có khả năng cải tử hoàn sinh. Bà ôm thây đứa con tìm đến gặp Phật và cầu xin ngài cứu mạng đứa con. Đức Phật kêu bà đi tìm một nắm hạt cải trong gia đình ai mà chưa bao giờ có người chết để làm phép cứu con bà. Bà ta mừng rỡ ôm con đi khắp làng này đến thôn nọ cũng chẳng tìm thấy, cuối cùng, bà hiểu ra rằng, không ai mà không khỏi chết. Bà trở về lạy Phật cầu xin làm đệ tử ngài. Khi nghe câu chuyện này lần đâu, tôi đã từng suy nghĩ, không cứu được thì nói phứt ra, vòng vo tam quốc rồi cũng chỉ chứng tỏ được sự bất lực. Càng trẻ con, con người càng có khuynh hướng thích các chuyện thổi phồng, thích thần thông, phép lạ, thích truyện chưởng đánh một cái là cả trăm người chết, thích Thánh Gióng cầm gậy sắt, cưỡi ngựa sắt bay về trời sau khi đánh tan giặc Ân. Té ra là cũng có người bay về trời chứ chả riêng mình Chúa Giêsu, mà Thánh Gióng còn bay trước Giêsu cả nghìn năm, lại cùng là người Việt Nam, lại chả thấy ai thờ phụng ngài.
• Chuyện nắm hạt cải trong đạo Phật quả thực khó làm cho bọn trẻ con thán phục, nhưng các nhà giáo dục hiện đại, các triết gia, các khoa học gia càng gẫm, càng quy phục Đức Phật. Đạo Phật không chủ trương lừa gạt.
• Chuyện nắm hạt cải dạy cho chúng ta cái gì có khởi đầu đều sẽ có kết thúc, khởi đầu và kết thúc là hai mặt không thể tách rời của một thực tại. Buồn khổ, đau đớn về cái chết thực phi lý. Ai muốn chứng minh phép lạ cứu sống một xác chết cũng là một việc làm phù phiếm vô nghĩa, ấu trĩ. Cái chết, sự hư rữa, sự hoại diệt là một trạng thái cần thiết của vũ trụ. Tại sao phải làm cho trạng thái tự nhiên ấy mất đi tính tự nhiên của nó rồi cho đó là phép lạ? Vũ trụ này sẽ không thể nào là một eco-system nếu thiếu các trạng thái sinh, trụ, dị diệt.
• Chuyện nắm hạt cải là một bài học cứu giúp người sống, và liều thuốc cứu khổ ấy, cho đến khi trái đất bị tiêu diệt, thì nó vẫn có giá trị ban vui cứu khổ. Thuốc của đạo Phật ai uống đều chữa được bệnh, không có chuyện phước chủ may thầy.
• Đức Phật, là Đấng Giác Ngộ theo con mắt của tín đồ, còn đối với những ai tin vào trí năng và sự phán đoán, đều phải công nhận ngài là một nhà giáo dục vĩ đại.
Tự tính tập thể trong tư tưởng và triết lí Phật giáo.
Tại sao tôi gọi đó là tự tính tập thể?
Là sự quy mạng về với pháp giới vũ trụ, một là tất cả, tất cả là một.
Tự tánh đó luôn thúc giục con người tìm về chính mình, cũng là chính vũ trụ, mình là vũ trụ chứ không phải là một thành phần của vũ trụ. Vũ trụ là viên dung, trong khi một phần của vũ trụ là đã bị tách rời, thực tại đã bị cắt xén. Phật giáo diễn tả thực tại vốn bất dị, bất nhất. Trong Phật giáo không có chỗ cho nhất nguyên luận, nhị nguyên luận hay xa hơn nữa là đa nguyên luận. Quá trình của sự tìm cầu giải thoát khỏi mọi khổ đau chính là thể nhập vào tính không của thực tại. Trọng tâm của đạo Phật tục đế là, gom cả lục đạo thành một, để chúng sanh sống trong hài hòa, hạnh phúc, đặc biệt là giữa loài người với người và thế giới chung quanh.

Trong tư tưởng đạo Phật không hề có cái này làm chủ cái kia, cái này xin nguyện đời đời làm nô lệ cho cái nọ, mà tất cả đều bình đẳng, đều là một. Thời gian không tách rời không gian, và thời gian cũng chẳng có quá khứ hay tương lai. Không gian không có chỗ này hay chỗ nọ. Phật là chúng sanh, chúng sanh là Phật. Phụng sự cho chúng sanh là phụng sự Phật, không cần phải vinh danh Phật, không cần phải thờ lạy Phật, không cần phải nịnh nọt van xin Phật, vì vốn Phật chính là Pháp giới vũ trụ, Phật là lửa, nhưng ai thò tay vào lửa thì cũng bị phỏng, Phật là đá, nhưng ai đập đầu vào đá cũng sẽ chết. Nhưng Phật cũng chính là ánh nắng dịu dàng, vầng trăng mát mẻ. Ai tu theo tịnh độ xin suy nghĩ cho điều này: Tây Phương Cực Lạc của Phật A Di Đà chỉ là phương tiện môn, giải thoát môn của ngài chính là pháp giới, vì tên hiệu của ngài là Pháp Giới Tàng Thân.
Đạo Phật lấy hạnh phúc của tập thể làm phương châm cho mọi hoạt động. Tư tưởng này được diễn đạt bằng nhiều hình ảnh :
• Thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sanh.
• Chúng sanh độ tận, phương chứng bồ đề (Chúng sanh hết thảy có hạnh phúc, mới tới lúc tôi được Bồ Đề - lời nguyện của Bồ Tát Địa Tạng)
• Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ.
• Như nhứt chúng sanh vị thành Phật, chung bất ư thử thủ Nê Hoàn. (Nếu có một chúng sanh chưa thành Phật, hay chưa được hạnh phúc, nguyện chưa chứng được Niết Bàn – lời tựa thần chú Lăng Nghiêm mà tu sĩ Bắc Tông phải đọc tụng mỗi sáng sớm)
• Hằng thuận chúng sanh. (Mười nguyện của Bồ Tát Phổ Hiền).
Trang bị được những hành trang như thế, bây giờ ta mới ung dung bàn đến ý nghĩa hay hình ảnh thiên thủ thiên nhãn vô ngại đại bi của Quan Âm Bồ Tát.
Cửa Phổ Môn hay sự lắng nghe đề cao vai trò của từ bi và hạnh phúc tập thể.
Giả thiết có một thành phố rất đông người, nhưng chỉ có duy nhất một vị bác sĩ, vậy thì vị bác sĩ ấy phải làm sao để cứu bệnh mà mỗi ngày số người tìm đến xin chữa bệnh lại càng đông? Trả lời câu hỏi này, lập tức ta hiểu ngay vì sao Bồ Tát Quán Âm lại biến mình thành nghìn tay nghìn mắt?
Thực khó tưởng tượng một người mọc ra được 1000 cánh tay, cầm đủ thứ dụng cụ để làm tất cả mọi chuyện, và mỗi cánh tay ấy lại có một con mắt. Nếu hiểu Bồ Tát Quan Âm thực sự là một con người sinh học như vậy, thì quả thực cái hiểu ấy quá máy móc. Đừng nói 1000 tay, chỉ chừng 100 cánh tay thôi, thì thân hình đã biến thành con nhím, hay con cầu gai dưới biển rồi. Nhưng, người duy nhất có nghìn tay nghìn mắt ở trần gian này, chỉ có Quán Âm Bồ Tát.
Và, khái niệm thiên thủ thiên nhãn duy nhất cũng chỉ có trong tâm linh Phật giáo.
Chỉ cần một hôm, trên đường về nhà, bạn nhìn thấy một người té nằm trên mặt đất, bạn bỗng cảm thấy lòng mình se lại vì thương cảm, bạn đến tìm hiểu xem chuyện gì đã xảy ra với kẻ bất hạnh kia, bạn giúp người ấy bằng hết tâm yêu thương của mình. Thế thì ngay phút giây cửa Phổ Môn của bạn mở ra, trái tim lắng nghe của bạn hướng về niềm đau nỗi khổ của người nằm bên vệ đường kia, ngay phút giây ấy, bạn chính là Quán Thế Âm Bồ Tát, và không chừng, người nằm ở vệ đường kia đã gửi cho bạn một tia năng lượng xin cầu cứu mà chỉ mình bạn cảm nhận được.
Ở VN chắc ai cũng biết chuyện cô Tim Aline Rebeaud với Nhà May Mắn. Khi còn rất trẻ, cô đi du lịch đến VN theo kiểu Tây Ba Lô. Cô thuê một khách sạn để ngủ, vào lúc trời khuya cô nghe tiếng khóc một đứa bé 10 tuổi bên đống rác, cô tìm đến đứa bé, muốn đem nó vào khách sạn để chăm sóc nhưng KS từ chối. Sáng hôm sau cô gặp lại thằng bé, từ đó cô quyết tâm hiến đời mình để chăm sóc, lo cho các đứa bé bệnh tật, cô nhi, cơ nhỡ tại VN. Đã hơn 20 năm qua, cô xây dựng được một cơ sở lớn và cô gọi là Nhà May Mắn Maison Chance, cô giúp đỡ nuôi nấng hằng trăm người tại cơ sở này. Mọi đứa bé bây giờ đã lớn, được học hành, có nghề nghiệp ổn định, ai cũng gọi cô là Mẹ Tim – Tim là trái tim nhân hậu. Đối với các trẻ em bất hạnh ở đây, cô Tim chính là Quán Thế Âm Bồ Tát.
Phật Quan Âm không có biên giới. Ngài vô ngã, không bị ràng buộc bỡi các thứ tình cảm phàm tục như thích được ca tụng, ganh ghét, đố kỵ, bao che cho phe mình, chỉ phù hộ cho ai thờ lạy mình như thần linh của các tôn giáo, nên ngài có thể hiện hình ngoại đạo, hay ngay cả hiện thành Đức Mẹ Maria để ban vui cứu khổ cho những người khác đức tin. Muốn cảm thông được với ngài, chỉ cần mở cửa Phổ Môn, thực hành lắng nghe bằng tất cả trái tim, không phân biệt văn hóa, tâm linh hay tín ngưỡng; chỉ cần trái tim biết nói, biết cởi mở, biết xóa bỏ biên giới, biết chung nhịp với nỗi khổ niềm đau – dù là niềm đau của chính mình hay của tha nhân, cũng nên lặng yên, quan sát và lắng nghe nó.
Một vị thần, vì luôn muốn dương danh, muốn được thờ lạy, không hiện hình ra kẻ khác, và luôn xưng tên Ta là thần này thánh nọ, sợ người khác không biết mình. Quán Thế Âm Bồ Tát không hề bị các giới hạn đó trói buộc, ngài hiện thân ra nghìn vạn hình thức sai biệt, và khi hiện ra, cũng hoàn toàn không muốn người được cứu giúp biết mình được cứu, đúng với chánh pháp vô ngã, vô nhân, vô thọ giả, vượt xa khỏi đối đãi chủ khách.
Dưới đây là tư tưởng thâm sâu không chủ khách đối đãi, vô tứ tướng của đạo Phật được trình bày trong kinh Kim Cương :
Đức Phật bảo ngài Tu-Bồ-Đề: "Các vị đại Bồ-tát phải hàng-phục tâm mình như thế này: bao nhiêu những loài chúng-sanh, hoặc là loài noãn-sanh, hoặc loài thai-sanh, hoặc loài thấp-sanh, hoặc loài hóa-sanh, hoặc loài có hình-sắc, hoặc loài không-hình-sắc, hoặc loài có-tư-tưởng, hoặc loài không-tư-tưởng, hoặc loài chẳng-phải-có-tư-tưởng, mà cũng chẳng-phải-không-tư-tưởng, thời Ta đều làm cho được diệt-độ, và đưa tất cả vào nơi vô-dư niết-bàn. Diệt-độ vô-lượng, vô-số, vô-biên chúng-sanh như thế, mà thiệt không có chúng-sanh nào là kẻ được diệt-độ cả. Tại sao vậy? Này, Tu-Bồ-Đề! Nếu vị Bồ-tát còn có tướng ngã, tướng nhân, tướng chúng-sanh, tướng thọ-giả, thời chẳng phải là Bồ-tát.
(Phật cáo Tu-bồ-đề: Chư Bồ-tát ma-ha-tát ưng như thị hàng phục kỳ tâm. Sở hữu nhất thiết chúng sanh chi loại, nhược noãn sanh, nhược thai sanh, nhược thấp sanh, nhược hóa sanh, nhược hữu sắc, nhược vô sắc, nhược hữu tưởng, nhược vô tưởng, nhược phi hữu tưởng phi vô tưởng, ngã giai linh nhập vô dư Niết-bàn nhi diệt độ chi. Như thị diệt độ vô lượng, vô số, vô biên chúng sanh, thực vô chúng sanh đắc diệt độ giả. Hà dĩ cố? Tu-bồ-đề, nhược Bồ-tát hữu ngã tướng, nhân tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng tức phi Bồ-tát.)
佛告須菩提:諸菩薩摩訶薩應如是降伏其心!所有一切眾生之類:若卵生、若胎生、若濕生、若化生;若有色、若無色;若有想、若無想、若非有想非無想,我皆令入無餘涅槃而滅度之。如是滅度無量無數無邊眾生,實無眾生得滅度者。何以故?須菩提!若菩薩有我相、人相、眾生相、壽者相,即非菩薩。
Thực ra nói Kim Cương Tứ Tướng là để làm phương tiện giảng giải cho rốt ráo, chứ chỉ cần đạt được vô ngã, thì mọi tướng bao quanh sẽ rơi rụng.
Ngã như chiếc chai chứa nước, tự nước chẳng có sự phân chia. Chai bể thì nước chảy ra, hòa với nước của vũ trụ, không trong ngoài ngằn mé.
Cùng một tư tưởng như trên, ta có thể ung dung nói rằng Quan Âm Bồ Tát cứu khổ muôn loài, nhưng chẳng có Quan Âm nào từng hiện ra, và cũng chẳng có ai từng được cứu !
Trở lại câu hỏi vị bác sĩ trong thành phố đông bệnh nhân ở trên, dù với người kém kiến thức nhất cũng sẽ nghĩ ra rằng, nếu muốn cứu hết bệnh nhân, vị bác sĩ kia chẳng thể ích kỷ một mình độc bá ngôi vị để được người người cúi đầu nịnh bợ khi đến gặp ông, ông phải đào tạo ra những bác sĩ học trò để cùng ông chăm lo cho bệnh nhân, học trò của ông cũng phải đào tạo thêm những thế hệ trẻ để cung ứng cho nhu cầu bệnh ngày càng gia tăng cùng với dân số. Ông phải nói với tất cả mọi người rằng ta là bác sĩ đã thành, các người là bác sĩ sẽ thành, chứ không thể nói các người chỉ có thể quỳ xuống chân ta, kẻ giỏi làm y tá trưởng, kẻ dở làm y tá hoặc làm hộ lý, còn ngôi vị đầy quyền năng bác sĩ thì chỉ duy nhất có mình ta là có thể làm mà thôi, thế thì ông sẽ mệt ù tai điếc óc, dù ông có sức bằng nghìn người, thông minh không ai sánh kịp, ông sẽ chỉ làm tới một lúc nào đó, sẽ chán nản bỏ cuộc mà không có kẻ truyền thừa. Ngoài việc đào tạo đội ngũ y, bác sĩ, ông phải kêu gọi hô hào mọi người tôn trọng vệ sinh, giữ môi trường trong sạch, vận động không hút thuốc, uống rượu, quyên góp xây cất bệnh viện, bệnh xá...
Cho nên, nghìn tay nghìn mắt trong tư tưởng từ bi của đạo Phật không phải là chuyện hư cấu, mà là một phép lạ cứ tưởng chừng chỉ xuất hiện qua lí thuyết hay trong huyền thoại, nhưng thực có sờ sờ ngay nhãn tiền của bất kì ai chịu lắng nghe, chịu khai mở cánh cửa Phổ Môn trong mỗi người.
Vậy thì ta cứ ung dung mà nhìn, nghìn tay nghìn mắt chẳng cần hiện ra bằng mây bằng khói, bằng mộng bằng mơ, mà ngay hiện tiền, trong mọi ngõ ngách của mọi loài, con ong cái kiến thì cùng nhau xây tổ nuôi con, một là tất cả, tất cả là một ; cùng nhìn khắp, lắng nghe, yêu thương, trao tay để cùng xây dựng đời sống. Nhân loại thì đang tìm cách vận động, khuyến khích, vinh danh những nghĩa cử cao đẹp để cứu vớt nhân loại : bất kỳ ai khởi tâm đại bi, thì đó là con mắt và cánh tay của Quán Thế Âm Bồ Tát. Không ai trong chúng ta không từng đã có lúc thị hiện làm Quán Thế Âm, không ai trong chúng ta không từng đã đưa tay dắt một người mù qua đường, không ai trong chúng ta không từng thắng xe lại khi thấy một em bé bất cẩn ngã xuống đường ; ai ai cũng lái xe cẩn thận vì tôn trọng sinh mạng của kẻ khác, ai ai cũng không xả rác bừa bãi ra đường phố sông ngòi ao lạch chỉ vì ích kỷ cho đó không phải là nơi mình ở, ai cũng sẵn lòng mua một tấm vé số để cụ bà neo đơn còng lưng có thể có chén cơm qua ngày, ai cũng nhai kẹo chewing gum không nhả ra trên đường phố...tất cả những thị hiện đó chính là Quán Thế Âm, là lắng nghe trái tim, mở cửa Phổ Môn.
Cứ mở cửa trái tim, lắng nghe, nó sẽ nói cho ta biết ta phải làm gì. Tất cả mọi người đều là mắt, là tay của Quán Thế Âm, đừng nói là nghìn tay nghìn mắt, mà nói tỉ tay tỉ mắt cũng chỉ là chuyện nhỏ.